CẤP CỨU (24/24):
02053.800.115

ĐIỆN THOẠI HỖ TRỢ :02053.870.039

Y học thưởng thức

MÙA LẠNH, PHÒNG BỆNH TIÊU CHẢY DO ROTAVIRUS

Bệnh tiêu chảy cấp do Rotavirus là bệnh nhiễm khuẩn dạ dày ruột gây nên. Bệnh gặp nhiều ở trẻ nhỏ, nhất là lứa tuổi từ 3 tháng đến 2 tuổi. Rotavirus là tác nhân gây bệnh tiêu chảy cấp thường gặp nhất trong mùa đông, chủ yếu lây lan qua đường phân - miệng. Bệnh dễ lây lan vì lượng virus thải ra trong phân rất lớn, vì vậy, việc phòng bệnh là vô cùng quan trọng. Nguy hiểm vì khả năng tồn tại dai dẳng Giống như bệnh cúm, tiêu chảy cấp do Rotavirus là bệnh có khả năng lây lan dữ dội, với đường truyền phổ biến là phân - miệng. Khi trẻ cầm nắm đồ chơi hoặc chạm tay vào các bề mặt có virus rồi đưa tay lên miệng, virus sẽ dễ dàng xâm nhập đường tiêu hóa của trẻ và gây bệnh. Các nhà khoa học thấy rằng mỗi 1ml phân của 1 trẻ bị tiêu chảy cấp do Rotavirus có thể chứa hơn 10.000 tỷ virus Rota trong khi chỉ cần chưa đến 10 virus này là đủ để lây bệnh cho con người. Virus gây bệnh này có thể sống nhiều giờ trên bàn tay, vài ngày trên các bề mặt rắn và tồn tại đến 21 ngày trong phân. Điều đáng lo ngại là virus Rota gần như không thể bị tiêu diệt bởi các biện pháp vệ sinh thông thường như xà phòng mà chỉ bị tiệt trừ bởi các dung dịch diệt khuẩn có chứa cồn. Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm Rotavirus, tuy nhiên bệnh thường xảy ra ở trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi. Khi mắc bệnh lần đầu, trẻ thường bị rất nặng và nhẹ dần ở các lần sau. Theo thống kê, 95% trẻ em bị nhiễm virus Rota ít nhất 1 lần trước 5 tuổi. Thời điểm giao mùa lạnh, đặc biệt là mùa đông và mùa xuân (từ tháng 10 đến hết tháng 4). Tuy nhiên, những năm gần đây, bệnh có thể xảy ra quanh năm. Ngoài ra, sau đợt lụt lội: môi trường ô nhiễm là điều kiện lý tưởng để virus Rota gây bệnh. [[{"fid":"2488","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 332px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Cho trẻ uống vắc- xin để phòng bệnh tiêu chảy do Rotavirus. Dấu hiệu nhận biết Rotavirus gây viêm dạ dày ruột rất đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các triệu chứng tiêu chảy phân nước, sốt và nôn. Triệu chứng thường xuất hiện sau giai đoạn ủ bệnh 2-3 ngày và kéo dài khoảng 5-7 ngày. Mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể từ không triệu chứng đến tiêu chảy mất nước nặng, có thể dẫn đến tử vong. Nôn và đi ngoài phân tóe nước là 2 đặc điểm lâm sàng thường gặp trong viêm dạ dày ruột cấp do Rotavirus. Thông thường, trẻ khởi phát bệnh với triệu chứng nôn và sốt, sau đó là tiêu chảy tóe nước nhiều lần trong ngày, có thể kéo dài đến 10 ngày. Phân thường không có nhầy máu. Hầu hết những trẻ phải nhập viện vì tiêu chảy do Rotavirus có cả 3 triệu chứng tiêu chảy, nôn và sốt. Sốt là biểu hiện khá phổ biến của trẻ nhiễm Rotavirus. Hầu như tất cả các bệnh nhân tiêu chảy cấp do Rotavirus có sốt, trong đó, gần 50% các trường hợp có biểu hiện sốt nhẹ ≤ 38,50C. Các triệu chứng thường gặp khác như nôn (100%), biếng ăn (97,67%), khó chịu (90,7%). Tiêu chảy cấp do Rotavirus là nguyên nhân gây mất nước đứng hàng thứ 2 sau tả do số lần tiêu chảy trong ngày thường từ 10-20 lần, một số trường hợp trẻ có thể đi ngoài trên 20 lần/ngày. Cách xử trí và chăm sóc trẻ Bệnh tiêu chảy cấp do Rotavirus gây ra, do vậy không nên dùng kháng sinh vì kháng sinh không có tác dụng diệt virus. Nếu trẻ bị tiêu chảy ở thể nhẹ, không có biến chứng thì bệnh thường tự khỏi sau 3 - 8 ngày. Trong thời gian này, việc điều trị chủ yếu là bù nước và muối cho trẻ. Có thể để trẻ ở nhà và chăm sóc theo sự hướng dẫn của thầy thuốc. Cho trẻ uống nhiều hơn bình thường bằng nước đun sôi để nguội, nước canh rau, nước khoáng (không có gas), nước dừa tươi, tốt nhất là cho trẻ uống dung dịch oresol theo liều lượng mà bác sĩ chỉ định. Nên cho trẻ ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, phù hợp với lứa tuổi; chia làm nhiều bữa nhỏ, bón chậm bằng muỗng để tránh nôn. Trường hợp trẻ bị nôn, cần cho trẻ nghỉ khoảng 5 - 10 phút rồi lại cho ăn tiếp, chậm hơn. Đối với trẻ còn bú thì tiếp tục cho trẻ bú mẹ, nếu trẻ bú bình, cần vệ sinh bình, núm vú và dụng cụ pha sữa kỹ trước mỗi lần cho ăn, sữa pha theo số lượng trẻ vẫn bú lúc không bị tiêu chảy. Không nên pha loãng hơn và không đổi loại sữa khác. Cách cho bú là cho trẻ bú từng ít một, chia làm nhiều lần trong ngày. Cũng cần theo dõi số lần đi tiêu chảy, số lượng phân, màu phân, khả năng uống bù nước và ăn uống của trẻ. Đặc biệt, cần chú ý phát hiện các dấu hiệu mất nước để kịp thời đưa trẻ đi cấp cứu. Lưu ý, tuyệt đối không dùng thuốc cầm tiêu chảy cho trẻ vì các thuốc này không những không diệt được virus gây bệnh mà còn làm giảm nhu động ruột, làm liệt ruột khiến phân không được thải ra ngoài, ứ đọng lại trong ruột gây trướng bụng, thủng ruột, tắc ruột, tử vong. Tránh kiêng khem quá mức, chẳng hạn không cho trẻ uống sữa và chỉ cho trẻ ăn cháo trắng với muối sẽ làm cho trẻ bị bệnh càng nặng hơn và lâu hồi phục. Bệnh có thể phòng ngừa Nếu trẻ bị bệnh, nên cho trẻ nghỉ học cho đến khi hết tiêu chảy để tránh lây lan cho các trẻ khác. Hiện nay, phương pháp phòng bệnh hiệu quả nhất là cho trẻ uống vắc-xin. Trẻ được uống 2 liều cách nhau 1 tháng, bắt đầu từ tuần thứ 6 sau khi sinh (tuổi lớn nhất còn có thể uống được vắc-xin phòng Rotavirus là 3 tháng tuổi, tuổi kết thúc uống là 4 tháng tuổi). Sau khi uống vắc-xin lần thứ nhất, cần theo dõi xem trẻ có biểu hiện dị ứng hoặc bất thường để báo ngay với bác sĩ. Bên cạnh đó, giữ vệ sinh tay sạch sẽ là biện pháp cơ bản để phòng bệnh. Nên tập cho trẻ có thói quen rửa tay trước khi cầm nắm thức ăn, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh. Người chăm sóc trẻ phải rửa tay sạch bằng xà phòng sau khi thay tã lót hoặc làm vệ sinh cho trẻ. Không để trẻ bò lê la trên sàn nhà hoặc ngậm tay, ngậm đồ chơi. Lau rửa sàn nhà và các vật dụng, bàn ghế, đồ chơi bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B, lau rửa sàn nhà vệ sinh, bồn cầu sau khi trẻ tiêu chảy đi vệ sinh.   Theo Sức khỏe và đời sống

PHÒNG VÀ XỬ TRÍ VIÊM ĐƯỜNG HÔ HẤP Ở TRẺ KHI TRỜI RÉT

Thời tiết lạnh là điều kiện thuận lợi cho virus, vi khuẩn phát triển khiến trẻ dễ mắc các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt khi thời tiết giá rét, ô nhiễm khói bụi thì những trẻ có sức đề kháng yếu sẽ dễ mắc bệnh viêm đường hô hấp, viêm phổi... gây ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. Vì vậy, việc phòng bệnh và xử trí đúng khi trẻ bị viêm đường hô hấp là vô cùng quan trọng. Viêm đường hô hấp (VĐHH) Nhiễm khuẩn hô hấp trên bao gồm các trường hợp viêm mũi - họng, VA, viêm amydal, viêm tai giữa, ho và cảm lạnh. VĐHH trên thường gặp và diễn biến nhẹ. VĐHH dưới ít gặp hơn, nhưng thường diễn biến nặng như viêm thanh quản, khí quản, phế quản, tiểu phế quản và phổi. VĐHH trên: VĐHH trên được chia làm 2 loại là cấp tính và mạn tính. Bệnh nhiễm khuẩn hô hấp trên cấp tính sẽ diễn biến trong vòng vài ba ngày với các dấu hiệu sốt cao hoặc vừa ho, hắt hơi, chảy nước mũi, nghẹt mũi, thay đổi giọng, mất giọng. Ở trẻ em dưới 1 tuổi đôi khi nôn nhiều, quấy khóc. Khi khám họng lúc đó sẽ thấy niêm mạc họng đỏ rực, sau đó, các dấu hiệu trên mất đi. Khi bị bội nhiễm các vi khuẩn trên, bệnh sẽ diễn biến nặng lên, trẻ hay bị viêm phế quản, viêm phổi. Khi bị VĐHH cấp tính mà không được điều trị hoặc điều trị không dứt điểm thì rất dễ chuyển thành mạn tính. Một số trẻ em bị VA mạn tính kéo dài mà căn nguyên do vi khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa) thì chất nhày chảy ra ở mũi thường có màu xanh. Ngoài chảy mũi, trẻ ngủ thường thở bằng miệng. Viêm tai giữa cấp cũng là một biến chứng hay gặp của nhiễm khuẩn hô hấp trên cấp tính. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm sẽ gây thủng màng nhĩ, giảm thính lực hoặc nặng có thể gây biến chứng nội sọ do viêm tai. VĐHH dưới: Viêm phế quản phổi là tổn thương viêm cấp tính lan tỏa cả phế nang, mô kẽ lẫn phế quản, khởi đầu thường do các tác nhân virus, sau đó bội nhiễm vi khuẩn hoặc do cả hai. Bệnh nhân có tiền sử nhiễm khuẩn nhẹ đường hô hấp trên như ho, sổ mũi, rất dễ bị viêm phế quản phổi. Trẻ viêm phế quản phổi ở giai đoạn khởi phát chỉ bị sốt nhẹ, người mệt mỏi, quấy khóc, ăn kém. Ở giai đoạn toàn phát, trẻ sốt cao hoặc có thể bị hạ nhiệt độ, ho khan, chảy nước mũi và bắt đầu xuất hiện đờm. Lúc này, trẻ thấy khó thở, cánh mũi phập phồng, thở nhanh. Đối với trẻ sơ sinh, trẻ đang còn bú có những triệu chứng và dấu hiệu: trướng bụng, da xanh tím, giảm trương lực cơ... [[{"fid":"2481","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","link_text":null,"attributes":{"height":"1237","width":"1024","style":"width: 500px; height: 604px;","class":"media-element file-default"}}]] Mặc ấm cho trẻ vào mùa đông giúp phòng bệnh đường hô hấp. Cần xử trí đúng Không phải bất cứ trường hợp VĐHH nào cũng được chỉ định dùng thuốc kháng sinh hay cho nhập viện điều trị nội trú. Nhưng cũng không phải vì coi nhẹ VĐHH mà mọi trường hợp VĐHH đều được tự điều trị tại nhà và theo dõi lơ là, chủ quan. Các trường hợp trẻ chỉ có ho, chảy mũi, không thở nhanh, không có rút lõm lồng ngực, không có các dấu hiệu nặng khác như co giật, li bì, bỏ bú... thì được nhận định là không viêm phổi. Các biện pháp điều trị bao gồm khuyến khích sử dụng các loại thuốc ho an toàn sẵn có như hoa hồng bạch hấp đường phèn, húng chanh hấp mật ong... dùng thuốc hạ sốt nếu có sốt cao. Hướng dẫn cho người chăm trẻ biết cách chăm trẻ tại nhà. Đối với các trường hợp nhiễm khuẩn mức độ vừa; trẻ có dấu hiệu thở nhanh nhưng chưa có các dấu hiệu nặng và biến chứng. Lúc này, thuốc kháng sinh bắt đầu được sử dụng. Chỉ cần cho trẻ uống liều thuốc đầu tiên tại các cơ sở y tế (trạm y tế, phòng khám ngoại trú...) rồi hướng dẫn cho người chăm trẻ biết cách cho trẻ uống thuốc tại nhà và chăm sóc trẻ. Hẹn đưa trẻ đến khám lại sau 2 ngày. Trường hợp nặng, trẻ có các dấu hiệu như rút lõm lồng ngực, thở rít hay có các dấu hiệu nặng kèm theo: li bì, co giật, bỏ bú... là các trường hợp cần được cấp cứu. Cần phải tìm mọi cách đưa trẻ đến ngay bệnh viện, các trung tâm y tế có đủ phương tiện tốt để cấp cứu và điều trị cho trẻ. Cách phòng tránh Để phòng tránh bệnh VĐHH ở trẻ, các bậc phụ huynh cần tăng cường ủ ấm cơ thể trẻ. Khi đi ra ngoài, cần mặc quần áo dài tay, đội mũ nón... Ngoài ra, nếu thời tiết quá lạnh thì phải trang bị áo ấm, khăn quàng cổ và hạn chế đưa trẻ ra ngoài khi không cần thiết. Có thể tăng sức đề kháng bằng nhiều biện pháp như: cho trẻ uống thuốc bổ, vitamin cần thiết ngăn ngừa cảm cúm, tiêm phòng bệnh cúm cho trẻ; cung cấp nhiều chất kháng thể qua các loại nước ép trái cây như cam, bưởi, dưa hấu...; cho trẻ ăn những món tăng cường dinh dưỡng, đảm bảo cơ thể khỏe mạnh như: các món cá, rau trái... Khi thấy những dấu hiệu bất thường như trẻ sốt, ho, sổ mũi nhiều, nên đưa ngay đến cơ sở y tế để kịp thời điều trị. Đặc biệt, các bậc phụ huynh lưu ý không nên tự chữa bệnh cho con. Khi thấy con ho, sốt, không ít người đã tự ra hiệu thuốc mua kháng sinh về tự điều trị. Thực tế, có nhiều trường hợp trẻ vào viện trong tình trạng bệnh nặng do sự thiếu hiểu biết của cha mẹ khi dùng thuốc bừa bãi. Vì thế, khi có những triệu chứng kể trên, cách tốt nhất là cho trẻ đến cơ sở y tế để được khám, phát hiện sớm và điều trị đúng cách.   Theo Sức khỏe và đời sống

ĐỀ PHÒNG BIẾN CHỨNG MẮT DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Trong các biến chứng mạn tính của bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), biến chứng mắt cũng thường xảy ra. Sau khoảng 5-7 năm mắc bệnh, dù được điều trị bài bản, một nửa số bệnh nhân có thể có một trong ba biến chứng mắt ĐTĐ là đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp và bệnh lý võng mạc. Bệnh lý võng mạc cũng là nguyên nhân chính gây mù lòa ở người ĐTĐ. Do đó, bệnh nhân ĐTĐ cũng nên kiểm tra mắt định kỳ, đặc biệt ở những người mắc bệnh lâu năm. Biến chứng mạn tính của ĐTĐ ĐTĐ là bệnh nội tiết quan trọng, liên quan đến chuyển hóa nhóm chất carbohydrate, tiêu biểu là glucose, cung cấp năng lượng cho tất cả tế bào trong cơ thể. Do đó, ĐTĐ có rất nhiều biến chứng mạn tính trên nhiều hệ thống như: tim mạch (tăng mỡ máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, xơ tắt động mạch ngoại vi...);  nhiễm trùng (glucose máu cao, tổn thương tại chỗ và suy giảm miễn dịch là điều kiện thuận lợi để vi khuẩn phát triển gây nên nhiễm trùng. Người ĐTĐ rất dễ bị lao phổi, bàn chân ĐTĐ, viêm đường tiểu...); thận ĐTĐ làm tổn thương vi mạch máu thận, tổn thương màng đáy gây tiểu albumin, giảm chức năng lọc của thận, suy thận); thần kinh (thường xuất hiện sớm nhất bao gồm các cảm giác đau, tê, nóng ở chân, hay tiết mồ hôi...); mắt (ĐTĐ có thể gây đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, đặc biệt tạo các tổn thương hệ thống mao mạch ở đáy mắt gây ra bệnh lý đáy mắt là nguyên nhân chính gây mù lòa). [[{"fid":"2457","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 281px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Bệnh lý võng mạc do ĐTĐ. Biến chứng võng mạc do ĐTĐ Để biết bệnh nhân ĐTĐ có bị biến chứng võng mạc hay không, cần phải làm kỹ thuật cận lâm sàng như chụp mạch máu võng mạc. Đây là một thủ thuật quan trọng giúp thầy thuốc chuyên khoa thấy rõ hình ảnh vị trí mạch máu võng mạc cũng như đánh giá được mức độ tổn thương, thay đổi bệnh lý. Sau này, kỹ thuật chụp mạch máu võng mạc huỳnh quang với chất màu huỳnh quang bơm vào mạch máu, hình ảnh võng mạc chụp được có màu sắc và rõ ràng hơn rất nhiều. Về bệnh lý võng mạc của ĐTĐ, người ta ghi nhận ở các bệnh nhân dù được điều trị thường xuyên, với nồng độ đường trong máu được kiểm soát ổn định thì cũng vẫn có đến 60% số bệnh nhân bị biến chứng võng mạc mắt sau 10 năm bị bệnh. Nếu không được kiểm tra và chữa trị kịp thời thì các tổn thương mắt này rất khó hồi phục. Do đó, cả Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Liên đoàn ĐTĐ Thế giới (IDF) đều khuyến cáo bệnh nhân ĐTĐ cần được kiểm tra mắt định kỳ, để phát hiện và điều trị sớm các biến chứng võng mạc. Ở Việt Nam, thống kê gần đây nhất tỷ lệ ĐTĐ là 5,6% và tiền ĐTĐ là 18%. ĐTĐ là bệnh mạn tính, bệnh nhân phải học cách “sống chung” với nó. Ngoài theo đúng chế độ điều trị “kiềng 3 chân”: Ăn uống, vận động, thuốc men, người ĐTĐ cũng cần theo dõi để phát hiện và xử lý sớm biến chứng... Biến chứng mắt, đặc biệt các bệnh lý võng mạc, là nguyên nhân chính gây mù lòa cho những người ĐTĐ lâu năm. Điều nguy hiểm là các biến chứng võng mạc mắt thường ít có dấu hiệu để bệnh nhân cảm nhận, và khi có rối loạn thị giác thì đã muộn. Tùy theo tổn thương và giai đoạn tiến triển của bệnh võng mạc, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng những biện pháp khác nhau như: dùng tia laser; phẫu thuật và điều trị bằng thuốc. Mắt là “cửa sổ tâm hồn”, cũng dễ tổn thương khi bị ĐTĐ. Những biến chứng này có thể ngăn chặn, giảm thiểu hay điều trị ổn định nếu phát hiện sớm.   Theo Sức khỏe và đời sống

CHÚ Ý PHÒNG VIÊM PHỔI MÙA LẠNH

Viêm phổi ở người cao tuổi (NCT) có thể xảy ra bất cứ mùa nào nhưng mùa lạnh, giá, rét, hanh khô, bệnh thường xảy ra nhiều hơn. Tại sao dễ mắc? Mùa lạnh, ẩm ướt, mưa, khô hanh là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật gây bệnh dễ phát triển, trong đó có các vi sinh vật gây bệnh ở đường hô hấp. Trong khi đó, ở đường hô hấp trên có rất nhiều loại vi khuẩn thường xuyên ký sinh ở đó (phế cầu, não mô cầu, H. influenzae, tụ cầu, liên cầu, vi nấm…), khi sức đề kháng của cơ thể suy giảm vì một lý do nào đó (mắc bệnh nhiễm trùng nào đó, cảm lạnh, dinh dưỡng kém…), chúng sẽ phát triển và gây bệnh, đặc biệt đối với trẻ em bị còi xương, suy dinh dưỡng hoặc NCT, sức yếu, bị tai biến nằm lâu… Thêm vào đó, đa số NCT thường có mắc thêm một số bệnh mãn tính (thoái hóa khớp, tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm phế quản mạn tính, hen suyễn, giãn phế quản, viêm họng mũi mạn tính…), các loại bệnh này về mùa lạnh thường tái phát hoặc nặng thêm, càng làm cho sức khỏe NCT suy giảm dễ mắc viêm phổi. Mùa lạnh, rét, NCT nếu mặc không đủ ấm, ăn uống thiếu chất dinh dưỡng, tắm rửa bằng nước lạnh, phòng ngủ có gió lùa và thiếu chăn, đệm càng dễ mắc bệnh viêm phổi. Nếu NCT nghiện thuốc lá, thuốc lào hoặc sống ở vùng có nhiều khói bụi, vệ sinh môi trường kém vào mùa lạnh bệnh viêm phổi càng dễ xuất hiện. [[{"fid":"2455","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 333px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Khi thấy mệt mỏi, tức ngực, sốt nhẹ, ho cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt Triệu chứng NCT do sức đề kháng đã suy giảm, nhất là người mắc các bệnh mạn tính kèo dài, tai biến mạch máu não cho nên khi bị mắc bệnh nhiễm trùng, trong đó có bệnh viêm phổi, có một số đặc điểm cần lưu ý. Viêm phổi NCT có một số đặc điểm khác với viêm phổi ở người trẻ tuổi, trẻ em. Viêm phổi ở NCT ít khi có khởi phát đột ngột, rầm rộ, bệnh thường âm ỉ, không có biểu hiện rõ ràng, các triệu chứng không thật sự điển hình. Vì vậy, sốt thường không cao (khoảng 37,30 - 38,00C), đặc biệt có những trường hợp NCT viêm phổi nhưng không sốt (suy dinh dưỡng, suy kiệt, nằm lâu…). Đa số các trường hợp là sốt, có kèm theo rét run (khoảng 30%), đau tức ngực và ho. Người bệnh thấy lạnh, rét phải mặc thêm áo, đắp chăn, sợ gió lùa. Ho, lúc đầu ho khan, vài ngày sau ho có đờm màu xanh, vàng hoặc đục hoặc đôi khi có ít máu (do khi khạc đờm áp lực mạnh làm vỡ một số mao mạch ở họng gây chảy một ít máu). Tuy vậy, ho thường yếu, thỉnh thoảng mới ho, tiếng ho không mạnh và ho từng tiếng hoặc cơn ho ngắn. Kèm theo ho thường có cảm giác tức ngực hoặc đau ngực. Người bệnh thở gấp, nhanh kèm theo có tiếng khò khè và có thể khó thở. Khó thở có thể xảy ra ngay khi gắng sức, khi ho và có thể cả khi nghỉ ngơi. Để chẩn đoán viêm phổi ngoài các dấu hiệu lâm sàng, tiền sử của bệnh (có mắc các bệnh mạn tính gì hay không, nhất là các bệnh về đường hô hấp như: viêm họng mạn tính, hen suyễn, giãn phế quản, tâm phế mạn…), cần chụp X-quang phổi, trong trường hợp cần thiết có thể chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc tốt hơn là chụp cộng hưởng từ (MRI). Ngoài ra, nên xét nghiệm công thức máu, tốc độ máu lắng, xét nghiệm đờm, nhầy họng để xác định vi khuẩn, vi nấm và thực hiện kỹ thuật kháng sinh đồ nhằm giúp bác sĩ điều trị tham khảo trong việc lựa chọn kháng sinh thích hợp để điều trị. Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh Do sức đề kháng của người cao tuổi đã suy giảm nên sự thể hiện của bệnh viêm phổi đôi khi không điển hình. Vì vậy, khi thấy mệt mỏi, tức ngực, sốt nhẹ, ho cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt để được xác định bệnh, trên cơ sở đó sẽ được điều trị kịp thời. Về phòng bệnh, NCT cần tránh lạnh đột ngột cho nên hàng ngày việc tắm, rửa cần có nước ấm, tắm ở buồng kín gió, tắm xong cần lau khô người, đầu tóc, mặc quần áo ngay và không nên tắm lâu. Nếu NCT sức yếu không tự tắm được, hoặc tinh thần không minh mẫn nên có sự hỗ trợ của người nhà, người giúp việc. Hàng ngày NCT cần vệ sinh sạch sẽ họng miệng bằng hình thức đánh răng, súc họng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. NCT có hàm răng giả, cần vệ sinh hàng tuần hoặc vài ba ngày một lần. Vào mùa lạnh, mưa rét nên hạn chế đi ra đường, nếu công việc không thể trì hoãn, cần thiết mặc ấm, chân tay cần có tất, cổ quàng khăn ấm, đầu đội mũ ấm và đeo khẩu trang. Đồng thời nên có chế độ dinh dưỡng hợp lý để tăng sức đề kháng và không nên hút thuốc. Nên vận động cơ thể hàng ngày bằng các động tác tập thể dục buổi sáng và tập hít thở đều (hít sâu, thở ra từ từ).   Theo Sức khỏe và đời sống

PHÒNG NGỘ ĐỘC KHÍ THAN TRONG MÙA LẠNH

Năm nào cũng vậy, khi thời tiết trở lạnh là xảy ra những ca ngộ độc do sử dụng than để sưởi ấm. Năm nào cũng vậy, khi thời tiết trở lạnh là xảy ra những ca ngộ độc do sử dụng than để sưởi ấm. Nguyên nhân là khi đốt than trong phòng ngủ, phòng tắm chật hẹp lại đóng kín cửa, than cháy sẽ đốt hết khí ôxy, sinh ra khí CO gây ngộ độc. Trong khi đó, khí CO không màu, không mùi vị nên rất khó nhận biết, nhất là khi đang ngủ, mọi người sẽ dần lịm đi mà không biết gì. Tổn thương do ngộ độc khí CO Ngộ độc khí than là do thiếu ôxy não, trong khi các tế bào chất xám chỉ huy hoạt động của con người, chịu trách nhiệm về hoạt động tinh thần, tình cảm, lý trí lại rất nhạy cảm với tình trạng thiếu ôxy. Vì vậy, khi ngộ độc khí than, các tế bào này sẽ tổn thương trước. Ngộ độc quá nặng sẽ gây tử vong, còn những người sống được thì lại mất trí tuệ. Càng ở phòng kín thì nguy cơ ngộ độc khí CO càng tăng. Quá trình nhiễm độc khí xảy ra rất nhanh, khi bệnh nhân bắt đầu cảm thấy có điều gì đó “bất thường” cũng là lúc không còn khả năng kháng cự rồi lịm dần. Nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời thì có thể dẫn đến tử vong. [[{"fid":"2453","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 273px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Biểu hiện lâm sàng ngộ độc khí CO Nạn nhân bị ngộ độc khí CO sẽ có các biểu hiện như sau: Khởi đầu chỉ là các triệu chứng tản mạn và không đặc hiệu. Nếu ngộ độc nhẹ thường chỉ thấy đau đầu, buồn nôn, chóng mặt, nôn, mệt mỏi, làm người bệnh dễ nhầm là bị nhiễm virut. Có người thấy da đỏ nhưng đây là triệu chứng không đặc hiệu. Ở mức độ ngộ độc vừa: Nạn nhân thấy đau ngực, khó tập trung, nhìn mờ, khó thở khi gắng sức nhẹ, mạch nhanh, thở nhanh, hoại tử cơ, thất điều. Khi bị ngộ độc nặng thấy đau ngực, hồi hộp, mất định hướng, co giật, hôn mê, rối loạn nhịp tim, tụt huyết áp, thiếu máu cơ tim, bỏng da, tiểu tiện, đại tiện không tự chủ. Bệnh nhân có thể bị ngất, tím ở môi và các đầu ngón tay, ngón chân; co cứng tay chân hoặc có những động tác bất thường. Nạn nhân thấy khó thở, thở trào bọt hồng. Tay chân sưng đau, nước tiểu sẫm màu, đỏ và ít dần. Di chứng thần kinh, tâm thần gặp ở nhiều trường hợp ngộ độc CO, sau khi hồi phục người bệnh thay đổi tính cách, giảm trí nhớ, giảm tập trung, liệt nửa người, vận động bất thường, đi đứng khó khăn, cử động chậm, tay chân cứng và run, cơ mặt bị liệt. Những biểu hiện này được gọi là hội chứng thần kinh - tâm thần muộn, chiếm tới 40% trường hợp nạn nhân bị ngộ độc khí CO. Xử trí khi có người bị ngộ độc khí CO Người bị ngộ độc khí CO thường ở trong phòng đóng kín cửa nhưng có động cơ đang nổ như: xe máy, máy phát điện hoặc bếp than, củi… mà bệnh nhân bất tỉnh hoặc tử vong thì nghĩ ngay đến ngộ độc khí. Cần nhanh chóng mở các cửa, khẩn trương đưa nạn nhân ra khỏi khu vực nhiễm độc và nhanh chóng đưa đến cấp cứu ở cơ sở y tế gần nhất để được xử lý và điều trị kịp thời vì khi ngộ độc mức độ CO trên 60% thì tỷ lệ hôn mê và tử vong cao. Bản thân người đến cấp cứu nạn nhân cũng phải chú ý đảm bảo an toàn cho mình, đồng thời nhanh chóng gọi người khác hỗ trợ, gọi cấp cứu y tế như gọi 115. Nếu bệnh nhân thở yếu hoặc ngừng thở, phải tiến hành ngay việc thổi ngạt bằng hô hấp nhân tạo miệng - miệng hay miệng - mũi. Nếu nạn nhân không còn tỉnh thì đặt bệnh nhân nằm nghiêng ở tư thế an toàn rồi vừa hà hơi thổi ngạt, vừa nhanh chóng chuyển đến cơ sở y tế gần nhất để được xử trí đúng cách và kịp thời. Phòng tránh ngộ độc Để phòng tránh ngộ độc thì cần phải dùng than đúng cách. Không đốt than, củi trong nhà, trong lều, không cho động cơ xe máy, ôtô... nổ máy trong phòng kể cả khi mở cửa cũng rất nguy hiểm. Nhân viên y tế cần tăng cường tuyên truyền cho nhân dân tại địa phương về cách phòng chống rét, đặc biệt với người già và trẻ em. Cụ thể: Nhà cửa phải che chắn kỹ, chăn đệm đảm bảo đủ ấm, mặc quần áo đủ ấm trước khi đi ra ngoài. Các cơ sở khám chữa bệnh đảm bảo việc phòng chống rét cho người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh. Nơi xếp hàng chờ khám, buồng khám, buồng điều trị phải đảm bảo kín gió, có đủ chăn đệm, lò sưởi... đảm bảo người bệnh được giữ ấm.  Đồng thời, đảm bảo bố trí đủ cơ số thuốc cấp cứu, giường bệnh, chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện cấp cứu để xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu thường gặp do thời tiết rét lạnh như các bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đột qụy, viêm đường hô hấp cấp do các loai virut đường hô hấp gây ra do thời tiết rét đậm, rét hại... Sử dụng thiết bị sưởi thế nào để tốt cho sức khỏe? Trời lạnh là thời điểm các bệnh viêm da cơ địa rất dễ phát sinh. Nhiều người cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu với làn da khô, thô ráp, có người da nứt nẻ chảy máu rất đau. Nếu sử dụng máy sưởi làm ấm nên có một chậu nước nhỏ đặt ở góc phòng và dùng kem dưỡng ẩm cho làn da thường xuyên. Không nên để thiết bị sưởi với nhiệt độ quá cao so với nhiệt độ ngoài trời. Mức chênh lệch này chỉ nên ở trong khoảng 10 độ, tránh xảy ra tình trạng nóng - lạnh đột ngột, dễ gây cảm và các bệnh về hô hấp. Đặc biệt với trẻ nhỏ và người cao tuổi, cần giữ thân nhiệt ổn định và hạn chế tiếp xúc với môi trường quá nóng hoặc quá lạnh, vì nguy cơ tai biến rất cao. Không nên đóng kín phòng khi bật thiết bị sưởi, bởi nếu quá kín thì sẽ không có sự lưu thông không khí, làm cho không khí khô nóng, dễ dẫn tới thiếu khí, ngạt thở. Sưởi bằng than tiết kiệm chi phí nhưng là cách sưởi ấm nguy hiểm, nhất là sưởi ấm trong phòng ngủ.   Theo Sức khỏe và đời sống  

PHÒNG BỆNH MÙA LẠNH CHO TRẺ

Mùa đông thời tiết diễn biến bất thường, chính là điều kiện thuận lợi để nhiều loại virus phát triển mạnh khiến nhiều người thấy mệt mỏi, đau ốm, đặc biệt là trẻ em, do sức đề kháng của cơ thể cũng có phần giảm sút. Cảm mạo: gây ra nghẹt mũi, chảy nước mũi, ho, đau đầu, sốt, sợ lạnh, toàn thân khó chịu. chịu. Để đề phòng cảm mạo phong hàn cho trẻ trong mùa đông, phải luôn giữ ấm cho trẻ, cho trẻ ăn uống nóng và đầy đủ chất dinh dưỡng. Không để trẻ ra nơi lạnh, có gió. Ban đêm đi ngủ phải chú ý cho trẻ đi tất và không nằm nơi có gió lùa. Viêm mũi: ban đầu trẻ bị ngứa mũi, hắt hơi từng tràng hoặc từng cái một, nặng đầu, đau mỏi chân tay. Sốt khoảng 39oC. Ban ngày thì nằm lịm, ban đêm thì quấy khóc bắt mẹ phải bế luôn trên tay. Nếu ở trẻ mới sinh, mũi dễ bị tắc do lỗ mũi rất nhỏ, trong khi đó trẻ lại chưa có thói quen thở bằng miệng nên rất dễ bị khó thở, trẻ quấy khóc, có hiện tượng co kéo ở thượng ức và thượng đòn. Hai hốc mũi trẻ sung huyết đỏ và ứ đọng nhiều dịch. Viêm VA: Thường xảy ra ở trẻ từ 6 - 7 tháng tuổi đến 4 tuổi nhưng cũng có khi gặp ở trẻ lớn hơn. Trẻ bị sốt 38 – 39oC, cũng có thể sốt cao hơn, chảy mũi, lúc đầu chảy mũi trong, loãng, những ngày sau thường chảy mũi nhầy, mủ. Trẻ cũng bị nghẹt mũi, dấu hiệu này được thấy rõ hơn khi trẻ ngủ. Ở những trẻ còn bú mẹ, dấu hiệu nghẹt mũi còn thấy khi trẻ muốn bú mẹ nhưng ngậm vú thì không thở được nên trẻ lại phải nhả vú mẹ ra để thở, và tất nhiên là trẻ sẽ khóc. Bệnh thường kèm theo ho, nếu có biến chứng viêm phế quản, ho sẽ trở nên trầm trọng hơn nhiều. Ngoài ra, có thể thấy trẻ mệt mỏi, biếng ăn, quấy khóc, hơi thở hôi. Tùy mức độ bệnh của trẻ mà bác sĩ ra chỉ định như: điều trị bằng thuốc hạ sốt nếu trẻ sốt cao trên 38oC, các thuốc làm loãng đờm giảm ho, các thuốc nhỏ mũi. Ngoài ra, việc làm sạch mũi thường xuyên là rất quan trọng. Dùng kháng sinh phải do thầy thuốc chỉ định trong những trường hợp nặng, có biến chứng hoặc đe dọa biến chứng. Viêm amiđan Trẻ bị viêm amiđan cấp sẽ sốt cao từ 39 – 40oC, đau họng, khó nuốt, chảy nước miếng nhiều, mệt mỏi, biếng ăn, biếng chơi. Viêm amiđan rất dễ gây biến chứng nếu không được điều trị đúng. Viêm họng cấp Triệu chứng đầu tiên là đau họng khi nuốt, kèm theo sốt, khàn tiếng. Nguyên nhân gây bệnh là loại vi khuẩn liên cầu tan máu beta nhóm A. Bệnh có thể gây đau khớp, biến chứng dẫn đến bệnh thấp tim ở trẻ em. Viêm phế quản Có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, thường sau khi thay đổi thời tiết, hoặc bị viêm họng, viêm mũi... Nhiều trường hợp trẻ chỉ sổ mũi trong, ho nhẹ vài cái, vẫn chơi và ăn uống bình thường. Nếu tình trạng này kéo dài, không điều trị đúng, trẻ dễ dẫn đến biến chứng bội nhiễm vi trùng gây viêm phế quản phổi rất nguy hiểm. Bệnh suyễn (hen phế quản) Thường gặp ở trẻ có cơ địa dị ứng như: có bệnh chàm, nổi mề đay, ngứa... Khó thở là biểu hiện điển hình, khó thở làm phập phồng cánh mũi, gây co kéo hõm ức, tiếng thở khò khè, môi tím, vẻ mặt sợ hãi. Nhiều trường hợp khó thở cấp tính cần xử trí cấp cứu kịp thời. Để phòng tránh các bệnh trong mùa lạnh cho trẻ, các bậc cha mẹ cần chăm sóc trẻ chu đáo hơn, tránh nhiễm lạnh, giữ ấm và đặc biệt là gió lạnh khi chiều về. Cho trẻ mặc ấm, giữ không cho bị lạnh ngực, tránh nơi gió lùa. Không để chân trẻ bị ẩm ướt hoặc bị lạnh, nhất là khi đi ngủ. Tăng cường sự dinh dưỡng, nhất là cho trẻ ăn các thức ăn nóng. Cần vệ sinh ăn uống và răng miệng cho trẻ thường xuyên để tránh nhiễm trùng. Hơn nữa, thói quen ngoáy mũi và bú tay của trẻ cần được khắc phục triệt để. Theo dõi và thực hiện theo đúng chỉ định của bác sĩ tránh để những biến chứng không đáng có xảy ra.   Theo Sức khỏe và đời sống

95% SỐ NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ ARV CÓ TẢI LƯỢNG HIV DƯỚI NGƯỠNG PHÁT HIỆN

Trong 3 mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020, hướng tới kết thúc đại dịch HIV/AIDS, Việt Nam đã về đích ngoạn mục với 96% người bệnh điều trị thuốc ARV được xét nghiệm có kết quả tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế (<1000 bản sao/ml máu) và gần 95% có tải lượng HIV dưới ngưỡng phát hiện (<200 bản sao/ml máu), không có nguy cơ lây truyền HIV qua đường tình dục cho bạn tình âm tính. [[{"fid":"2449","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"height":"229","width":"329","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Ông Trương Quốc Cường- Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu tại hội nghị Đây là thông tin được đưa ra trong Hội nghị 20 năm điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam do cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế đã tổ chức ngày 4/12/2019. Trong 3 mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020, hướng tới kết thúc đại dịch HIV/AIDS, Việt Nam đã về đích ngoạn mục với 96% người bệnh điều trị thuốc ARV được xét nghiệm có kết quả tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế (<1000 bản sao/ml máu) và gần 95% có tải lượng HIV dưới ngưỡng phát hiện (<200 bản sao/ml máu), không có nguy cơ lây truyền HIV qua đường tình dục cho bạn tình âm tính. Với những nỗ lực từ Chính phủ và hỗ trợ mạnh mẽ của các tổ chức quốc tế, đến hết tháng 9/2019, cả nước đang điều trị thuốc kháng vi rút ARV cho trên 142.000 người nhiễm HIV, tăng gần 280 lần so với năm 2004. Trung bình mỗi năm có trên 10.000 người nhiễm HIV được đưa vào điều trị ARV. Số ngày chờ từ khi đăng ký điều trị cho đến khi được điều trị ARV đã giảm từ trên 350 ngày năm 2011 xuống còn 0 ngày vào năm 2018. Người nhiễm HIV đã được đưa vào điều trị ARV trong ngày với thời gian từ khi có xét nghiệm sàng lọc HIV dương tính cho đến khi được khẳng định nhiễm HIV và điều trị ARV có nơi chỉ còn có 6,5 giờ. Cấp phát thuốc ARV tối đa 90 ngày sử dụng đã được thực hiện cho người nhiễm điều trị thuốc ARV ổn định. Đánh giá cao việc mở rộng điều trị ARV tại Việt Nam, Ông Kidong Park, Trưởng đại diện Tổ chức y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam cho biết: “Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương có tốc độ tăng bao phủ đáng kể thuốc ARV. Việt Nam cũng rất tích cực sáng tạo trong việc giúp bệnh nhân HIV tiếp cận điều trị. Từ năm 2012 việc thay đổi mô hình cung cấp dịch vụ HIV bao gồm xét nghiệm HIV, điều trị ARV và điều trị methadone đã được thực hiện từ quy mô thí điểm đến phủ rộng toàn quốc. Cách tiếp cận theo hướng đưa dịch vụ đến gần dân hơn và giúp người bệnh tiếp cận dễ dàng hơn, giảm chi phí và thời gian đi lại cho người bệnh, đặc biệt là những người sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa”. Bên cạnh mở rộng độ bao phủ điều trị ARV, chất lượng điều trị ARV cũng được cải thiện và nâng cao dần qua các năm. Kết quả xét nghiệm tải lượng HIV trong 3 năm gần đây cho thấy hiệu quả chương trình điều trị được duy trì cao liên tục qua các năm. Kết quả 9 tháng đầu năm 2019 có 96% người bệnh điều trị thuốc ARV được xét nghiệm có kết quả tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế (<1000 bản sao/ml máu) và gần 95% có tải lượng HIV dưới ngưỡng phát hiện (<200 bản sao/ml máu). Các nghiên cứu khoa học gần đây đưa ra bằng chứng: “Một người uống thuốc kháng vi rút (ARV) hàng ngày theo hướng dẫn của thầy thuốc, đạt được và duy trì tải lượng vi rút ở mức không phát hiện thì  không có nguy cơ lây truyền HIV qua đường tình dục cho bạn tình âm tính”. Bằng chứng khoa học này được khái quát bằng thông điệp “Không phát hiện = Không lây truyền” (viết tắt là K=K). Như vậy, tại Việt Nam có gần 95% người nhiễm HIV điều trị thuốc ARV hiện nay không làm lây truyền HIV qua quan hệ tình dục cho bạn tình của họ. Đây là phát hiện quan trọng, nếu được truyền thông và quảng bá rộng rãi sẽ giúp người có hành vi nguy cơ tăng cường xét nghiệm sớm HIV; người được chẩn đoán nhiễm HIV sống tích cực, tiếp cận sớm với dịch vụ điều trị và tuân thủ điều trị, xét nghiệm tải lượng HIV định kỳ; Bằng chứng khoa học trên cũng giúp người cung cấp dịch vụ và cộng đồng giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Đánh giá cao hoạt động này, Bà Caryn R. McClelland, Phó Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cho rằng: “Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong các hoạt động K=K do đã sớm đưa các phát hiện này vào các chính sách và chương trình quốc gia. Việt Nam được đánh giá là có tỷ lệ ức chế virus HIV thuộc hàng cao nhất thế giới.” Để bảo đảm điều trị ARV bền vững trong bối cảnh các nguồn tài trợ nước ngoài cắt giảm và kết thúc vào năm 2020, Việt Nam đã và đang chuyển đổi thay thế từ nguồn viện trợ sang nguồn quỹ bảo hiểm y tế. Về hoạt động này, Ông Eamonn Murphy, Giám đốc Chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về HIV và AIDS (UNAIDS) Khu vực Châu Á Thái Bình Dương cho biết: “Việt Nam đang chứng minh cho toàn Châu Á Thái Bình Dương một cách thức mới để tiến về phía trước, với việc đưa điều trị ARV vào bảo hiểm y tế là điểm quan trọng đối với mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân. Có thể còn nhiều thách thức trong việc tiếp tục mở rộng quy mô, nhưng phải tiếp cận được những người cuối cùng để không ai bị bỏ lại phía sau”. Ứng phó với nguồn viện trợ quốc tế cắt giảm nhanh chóng, đặc biệt là với thuốc điều trị ARV, Việt Nam đã kịp thời chuyển đổi mô hình điều trị ARV từ các chương trình dự án tài trợ sang chi trả qua bảo hiểm y tế. PSG.TS.Nguyễn Hoàng Long, cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS cho biết: “Trong tổng số 142.000 bệnh nhân đang điều trị ARV thì chúng ta đã chuyển đổi thành công trên 42.000 bệnh nhân chỉ trong có 6 tháng, từ tháng 3/2019 đến tháng 9/2019. Đây là thành công mà nhiều nước trên thế giới muốn tìm hiểu và học tập. Chúng ta sẽ tiếp tục chuyển đổi sang bảo hiểm y tế theo lộ trình cắt giảm của thuốc viện trợ để đảm bảo rằng khi không có thuốc viện trợ thì bệnh nhân vẫn tiếp tục được điều trị thuốc ARV đầy đủ và liên tục”. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu 90 - 90 - 90 vào năm 2020, kết thúc AIDS vào năm 2030, vẫn còn rất nhiều thách thức. Bên cạnh thách thức về nguồn viện trợ quốc tế đang cắt giảm cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS nói chung và cho công tác điều trị HIV nói riêng, thì việc đưa người nhiễm HIV vào điều trị ARV sớm vẫn là thách thức lớn. Làm thế nào để người nhiễm HIV thuộc nhóm quần thể  “ẩn” như nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới nữ, người tiêm chích ma túy… được tiếp cận sớm với các biện pháp dự phòng và điều trị thuốc ARV. Kết quả nghiên cứu của Trường đại học Y Hà Nội cho thấy, nếu không được can thiệp dự phòng thì trong số 100 người nam quan hệ tình dục đồng giới chưa nhiễm HIV thì sau một năm sẽ có 7 người chuyển nhiễm HIV. Do đó, song song với việc mở rộng điều trị thuốc ARV, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh chương trình điều trị dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc ARV (PrEP) cho quần thể có nguy cơ cao nhiễm HIV như nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới nữ…. Hiệu quả dự phòng nhiễm HIV của PrEP nếu tuân thủ tốt lên đến từ 95- 97%.  Phát biểu tại hội nghị, ông Ông Trương Quốc Cường- Thứ trưởng Bộ Y tế đã cảm ơn sự  giúp đỡ quý báu về chuyên môn, kỹ thuật cũng như tài chính của các tổ chức quốc tế trong việc mở rộng chương trình chăm sóc và điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam và mong muốn các tổ chức quốc tế sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong cuộc chiến cam go này. Thứ trưởng cũng đề nghị các đại biểu cần chia sẻ một cách thẳng thắn các quan điểm, đề xuất những giải pháp để giải quyết những khó khăn, vướng mắc, đảm bảo sự bền vững của chương trình, nâng cao chất lượng chăm sóc điều trị HIV/AIDS và đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm đạt được mục tiêu, kết thúc đại dịch HIV/AIDS tại Việt Nam vào năm 2030.   Theo Sức khỏe và đời sống

HUYẾT ÁP THẤP – MỘT NGUYÊN NHÂN GÂY TAI BIẾN MẠCH NÃO

Nhiều người tưởng rằng chỉ tăng huyết áp mới gây tai biến mạch máu não, nhưng thực tế, huyết áp thấp cũng là nguyên nhân dẫn tới căn bệnh nguy hiểm này. Nhiều người tưởng rằng chỉ tăng huyết áp mới gây tai biến mạch máu não, nhưng thực tế, huyết áp thấp cũng là nguyên nhân dẫn tới căn bệnh nguy hiểm này. Có nhiều nguyên nhân gây ra huyết áp thấp như chế độ dinh dưỡng, người có bệnh mạn tính, bị suy giảm các chức năng, cũng có thể do yếu tố di truyền và nhiều nguyên nhân hiện chưa được biết đến. Những người có hiện tượng mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt thường chủ quan, cho rằng do thay đổi thời tiết, do gặp lạnh, áp lực công việc, stress... Tuy nhiên, đây là những triệu chứng đặc trưng của bệnh huyết áp thấp mà một số người thường bỏ qua. [[{"fid":"2447","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 282px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Huyết áp thấp là gì? Với người bình thường, trị số huyết áp thường là 120/80mmHg (đây là trị số giữa huyết áp tâm thu/tâm trương). Nếu trị số huyết áp dưới 100/60mmHg được cho là mắc bệnh huyết áp thấp. Nếu một người khỏe mạnh bình thường đo huyết áp thấp thường không có triệu chứng gì và không cần điều trị bởi nó không phải là bệnh. Tuy nhiên, nếu được bác sĩ chuyên khoa xác định mắc bệnh huyết áp thấp, người bệnh cần được theo dõi và điều trị. Đối với những người già, người có bệnh mạn tính nếu đo huyết áp ở mức thấp nên được quan tâm điều trị, bởi điều này có thể gây nguy hiểm do máu không đến đủ tim, não hoặc các bộ phận khác trong cơ thể. Nguy hiểm nhất trong bệnh huyết áp thấp là khi huyết áp giảm đột ngột, não bị thiếu một nguồn cung cấp máu sẽ dẫn đến chóng mặt, đầu óc lâng lâng. Khi thay đổi tư thế từ nằm hoặc ngồi sang đứng, huyết áp thay đổi, đây là một loại huyết áp thấp thường được biết đến là hạ huyết áp tư thế. Hay huyết áp thấp do trung gian, đó là khi một người phải đứng quá lâu dẫn đến hạ huyết áp. Theo ước tính, có khoảng 10-20% những người từ 65 tuổi trở lên bị bệnh huyết áp tư thế. Đó là do sự hư hại của hệ tim mạch, hệ thần kinh chịu trách nhiệm giúp cơ thể thích ứng với những sự thay đổi đột ngột. Ngoài ra, huyết áp thấp thường xuất hiện khi người bệnh bị tiêu chảy, xuất huyết tiêu hóa, rong kinh, rối loạn tiền mãn kinh. Biểu hiện càng rõ ràng khi thay đổi tư thế đột ngột. Những ai dễ bị huyết áp thấp? Phụ nữ mang thai. Người mắc bệnh nội tiết như suy tuyến giáp, bệnh tiểu đường. Do thuốc, một số loại thuốc gây hạ huyết áp như thuốc trị bệnh cao huyết áp, trầm cảm hoặc bệnh Parkinson. Do rối loạn nhịp tim. Kiệt sức vì nóng hoặc đột quỵ do nắng nóng gây hạ huyết áp. Người mắc bệnh gan. Hậu quả do huyết áp thấp Huyết áp thấp cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng không kém gì tăng huyết áp. Thông thường, người dân thường chủ quan và chưa có hiểu biết đúng về căn bệnh huyết áp thấp. Nhiều người nghĩ rằng, những triệu chứng này là do ăn uống không tốt, thể trạng yếu... mà không coi đó là bệnh và chỉ cần nghỉ ngơi sẽ khỏi. Nguy hiểm nhất trong bệnh  huyết áp thấp là liên quan đến tim mạch thì lại ít người biết đến như các bệnh nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực... Nếu bị tụt huyết áp nhiều lần sẽ làm cho các cơ quan trong cơ thể nhanh bị suy yếu, do chất dinh dưỡng và oxy không thể đến được các bộ phận đó gây tổn thương. Nặng nhất với các trường hợp tụt huyết áp có thể gây sốc, nhất là với những người khi đang làm công việc ở ngoài trời nắng, trên cao hoặc đang lái xe... sẽ nguy hiểm tới tính mạng. Nếu người bệnh chủ quan, để tình trạng huyết áp thấp kéo dài thì có thể dẫn đến tai biến mạch máu não, tỷ lệ này chiếm khoảng 10-15%. Hiện nay, sự hiểu biết của bệnh nhân về huyết áp thấp còn rất ít. Các nghiên cứu cho thấy, hơn 70% bệnh nhân không biết mình bị huyết áp thấp, hơn 80% bệnh nhân bỏ qua những triệu chứng của bệnh. Phòng ngừa thế nào? Huyết áp thấp sẽ làm suy giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh nhưng không phải ai cũng nhận thức được vấn đề này để có những biện pháp dự phòng và điều trị dứt điểm. Người bệnh cần ăn nhiều bữa trong ngày (từ 4-5 bữa) với các loại thực phẩm giàu chất đạm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa giúp tăng huyết áp. Uống thêm cà phê, nước chè xanh đặc với bánh quy hay 1-2 miếng bánh mỳ với bơ hoặc pho mát cũng rất có lợi cho việc nâng huyết áp và sức khỏe. Hạn chế rượu, bia, đồ uống có cồn, mướp đắng, lòng trắng trứng gà, nước cam, khoai lang tím, tảo biển, ớt, quả kiwi… là những thực phẩm gây hạ huyết áp. Theo lời khuyên của bác sĩ, người bệnh không nên chủ quan, coi thường các dấu hiệu bất thường của sức khỏe để tránh những hậu quả đáng tiếc do huyết áp thấp gây ra. Ngay khi bị hoa mắt, chóng mặt, choáng váng..., bạn hãy đến các cơ sở y tế để kiểm tra kịp thời. Lời khuyên của thầy thuốc. Để phòng ngừa tai biến khi bị huyết áp thấp, người bệnh không nên thức khuya, giữ ấm khi ngủ, không ra ngoài trời nắng gắt, muốn thay đổi tư thế cần vận động từng bước một, không trèo cao, duy trì vận động nhẹ nhàng vừa phải như đi bộ, khi ngủ cần gối thấp. Đặc biệt, người từ 50 tuổi trở lên cần theo dõi huyết áp thường xuyên bởi họ rất dễ có nguy cơ chuyển từ huyết áp thấp thành tăng huyết áp.   Theo Sức khỏe và đời sống

Trang