CẤP CỨU (24/24):
02053.800.115

ĐIỆN THOẠI HỖ TRỢ :02053.870.039

Y học thưởng thức

PHÒNG TRÁNH ĐỘT QUỴ MÙA NẮNG NÓNG

Người cao tuổi (định nghĩa lão là từ 60) dễ bị stress và gặp nhiều vấn đề sức khỏe do nhiệt độ tăng cao hơn người trẻ tuổi vì nhiều lý do: giảm khả năng thích nghi hoặc điều hòa cơ thể khi nhiệt độ đột ngột thay đổi; tình trạng bệnh lý mạn tính có thể tiến triển nặng lên khi thay đổi nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến cơ thể người cao tuổi. Thời tiết nắng nóng, sự bài tiết mồ hôi nhiều nên dễ mất nước nhiều quá còn có thể dẫn đến hiện tượng cô đặc máu dễ tăng nguy cơ đột quỵ cấp. Cơ thể dễ bị tổn thương vì nóng Khi nhiệt độ tăng cao vào những tháng ngày mùa hè nóng bức, người cao tuổi sẽ hay gặp các bệnh về đường hô hấp như viêm họng, viêm mũi xoang, viêm phổi. Thay đổi nhiệt độ đột ngột vì “tắm giải nhiệt” có thể gây sốc nhiệt ở người lớn tuổi, một trong các triệu chứng thường gặp là đau đầu do co thắt mạch máu não. Thời tiết nắng nóng, sự bài tiết mồ hôi nhiều nên dễ mất nước nhiều quá nên có thể dẫn đến hiện tượng cô đặc máu dễ tăng nguy cơ đột quỵ cấp. Ngoài ra, mồ hôi tăng tiết, người lớn tuổi còn gặp các vấn đề về da như dị ứng, nổi sẩn đỏ, vùng kẽ tay hay vùng nách - bẹn dễ mắc các bệnh nấm da… [[{"fid":"2815","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 300px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Khi nhiệt độ tăng cao bất thường, nếu không biết bảo hộ và phòng ngừa khi ra ngoài nắng, có thể dẫn tới tử vong Nguy cơ đột quỵ Đa số, người ta thường đề cập đến các bệnh lý hô hấp, cảm cúm thoáng qua, rối loạn tiêu hóa vào mùa nắng nóng ở người cao tuổi. Nhưng, bệnh lý đau đầu có thể dẫn đến đột quỵ cũng cần chú ý đối với người cao tuổi. Một số trường hợp người lớn tuổi khác do lười uống nước nên bị đột quỵ. Tình trạng mất nước nhiều quá dẫn đến co mạch, giảm lưu lượng thể tích máu nên thiếu máu lên não, tác động tiêu cực lên não phải khiến bệnh nhân bị tai biến mạch máu não. Một nguyên nhân nữa khiến người cao tuổi dễ có nguy cơ bị đột quỵ trong mùa nắng nóng hiện nay đó chính là không gian ở thường gắn máy lạnh. Người cao tuổi ở trong phòng máy lạnh, đột ngột bước ra bên ngoài, nóng với nhiệt độ cao hơn, sẽ hay bị choáng, xây sẩm, ngất. Tùy đáp ứng của mỗi bệnh nhân, nhiều trường hợp sốc nhiệt có thể dễ đưa tới đột quỵ, tử vong. Ngoài ra, đối với những bệnh nhân lớn tuổi có kèm theo theo bệnh nền tim mạch, nên khi thay đổi của cơ thể phản ứng với nắng nóng có thể làm tim đập nhanh lên, bệnh nhân càng cảm thấy khó chịu; hoặc đau ngực, hoặc ảnh hưởng huyết áp khi mất nước nhiều làm tụt huyết áp… Nếu không được bù đủ nước, bệnh nhân có thể bị suy tim cấp trên nền bệnh lý tim mạch có sẵn hoặc có thể nhồi máu cơ tim… Nhiệt độ tăng trong những tháng hè có thể làm tăng nguy cơ tử vong ở những người cao tuổi có bệnh nền, như: Bệnh phổi mạn tính tăng nguy cơ tử vong tăng 3,7%; nguy cơ tử vong ở nhóm bệnh nhân đái tháo đường là 4%; nguy cơ tử vong do đau tim hoặc suy tim là từ 2,8 - 3,8%. Các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Harvard (Mỹ) cũng tìm thấy, tỷ lệ tử vong ở những người trên 65 sẽ giảm 1 - 2% ở những thành phố có nhiều vùng cây xanh hơn. Xử trí đúng cách với người cao tuổi Khi cơ thể ra nhiều mồ hôi vì nóng không nên tắm nước lạnh ngay mà phải ngồi nghỉ ngơi chừng 30 phút, để mồ hôi khô ráo, lỗ chân lông thu nhỏ lại, không giãn ra mới được đi tắm. Vệ sinh cơ thể hàng ngày để giảm các vấn đề về nấm da. Ước tính, cơ thể con người, nước chiếm từ 50% - 70% trọng lượng cơ thể, ở người cao tuổi nước chiếm khoảng 50% trọng lượng cơ thể. Một ngày, qua con đường tiêu hóa, con đường tiết niệu, con đường hô hấp và bài tiết qua da chúng ta thải ra trung bình 2l – 2,5l nước trong cơ thể. Do vậy, người lớn tuổi nên bù vừa phải từ 1,5l - 2l nước/ngày. Trong những đợt nắng nóng, người cao niên nên uống nước đun sôi để nguội và các loại nước trái cây (nước ép trái cây, nước dừa, nước cam..) thường xuyên, với một nguyên tắc là dinh dưỡng đầy đủ vào mỗi bữa ăn, cũng như uống nước lượng nước đầy đủ cho ngày, không nên uống nước nhiều và nhanh trong cùng một lúc. Ngoài ra, người lớn tuổi tránh uống rượu cũng như các loại nước uống có chất kích thích. Trong thời gian này, hệ miễn dịch của người lớn tuổi sẽ gặp rất nhiều thử thách. Vì vậy, người chăm sóc cũng như người nhà cần chú tâm bổ sung đa dạng thực phẩm, mỗi bữa ăn nên giàu rau củ quả tươi giàu các vitamin thiết yếu như vitamin C. Đồng thời, trong những ngày nắng nóng, để giúp tăng khẩu vị cho người cao tuổi, chúng ta nên chú trọng cho người cao tuổi ăn các bữa ăn nhỏ, nhẹ và dàn trải ra trong ngày. Bao gồm các loại trái cây và rau quả tươi như đào, mận, quả mọng, dưa hấu, mía, xoài, các loại trái cây có múi, bí ngô, bầu, dưa chuột và hành tây vì chúng dễ tiêu hóa, có đặc tính làm mát, hữu ích cho các vấn đề về dạ dày như giảm dịch vị axit và sẽ bổ sung nước cho cơ thể. Đối với những trường hợp người cao tuổi gặp các biến cố hay bất cứ một vấn đề sức khỏe nào trong ngày nắng nóng, người nhà cần ngay lập tức liên hệ với cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời, tránh các diễn biến nặng hơn.   Theo Sức khỏe và đời sống

ĐỂ KHÔNG BỊ VIÊM HỌNG MÙA NÓNG

Uống nước đá thường xuyên, sử dụng máy lạnh quá lâu, để quạt hướng thẳng vào người... là những thói quen gây viêm họng mà nhiều người hay mắc phải trong mùa hè. Viêm họng là một bệnh phổ biến, xảy ra ở mọi đối tượng và đặc biệt dễ mắc vào những ngày hè nóng bức. Nguyên nhân gây nên tình trạng này là do một số thói quen mà nhiều người thường mắc phải khi cố gắng giải nhiệt cho cơ thể. Những tác nhân gây viêm họng Viêm họng là tình trạng niêm mạc họng và biểu mô dây thanh bị tổn thương viêm do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do vi khuẩn, virus, nấm, dị ứng... Sự thay đổi nhiệt độ môi trường và cơ thể diễn ra đột ngột nên niêm mạc họng thường chưa đủ thời gian để làm ấm như chức năng vốn có, kích thích niêm mạc họng mà nhanh chóng gây bệnh. [[{"fid":"2794","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 313px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Súc miệng nước muối pha loãng để phòng viêm họng. Nguyên nhân viêm họng thường gặp nhất là do vi khuẩn: phế cầu, Hemophilus Influenzae, tụ cầu và nguy hiểm nhất là liên cầu ß tan huyết nhóm A (khoảng 20%), liên cầu, Friedlander, Pfeiffer... Thời đại công nghiệp hóa, thói quen sử dụng điều hòa ngày càng phổ biến. Nếu điều hòa không được vệ sinh thường xuyên thì đây sẽ là một yếu tố thuận lợi làm cho nấm phát triển và phát tán vào không khí trong nhà, khi niêm mạc họng suy yếu, nấm sẽ gây ra viêm họng. Ngoài ra, trong mùa hè do tần suất sử dụng đồ uống lạnh tăng đột ngột gây viêm họng, khàn tiếng. Nguyên nhân vì uống nước đá lạnh nhiều sẽ làm khô lớp nhầy bảo vệ niêm mạc cổ họng. Nó gây nên hiện tượng bỏng lạnh, từ đó khiến cổ họng bị rát và tổn thương. Vì thế vi khuẩn dễ xâm nhập, dẫn đến viêm họng cấp. Nhiều yếu tố làm cho những người có cơ địa dị ứng như các loại phấn hoa có trong mùa hè (hoa sữa, hoa mộc, hoa sói...). Thức ăn mùa hè như các loại kem, các loại nước giải khát... Niêm mạc họng và thanh quản bị kích thích, phù nề gây ngứa họng, rát họng và ho cơn đồng thời dị ứng cũng lan nhanh xuống thanh quản gây khàn tiếng, ho, thậm chí khó thở thanh quản (phù Quinke thanh quản). Biểu hiện của bệnh Người bệnh có cảm giác ớn lạnh, gai rét kèm theo đau mỏi người (virus). Hội chứng nhiễm khuẩn: sốt, môi khô, lưỡi bẩn (vi khuẩn). Cảm giác khô họng, rát họng, đau họng, nuốt đau nhói lên tai, ho khan trong giai đoạn đầu sau đó ho có đờm. Khi khám, bác sĩ sẽ thấy niêm mạc họng đỏ, tăng xuất tiết; nếu do vi khuẩn trên niêm mạc họng và amidan sẽ có giả mạc màu trắng hoặc vàng xám bao phủ. Bệnh viêm họng cấp thường diễn ra trong vòng 3 - 4 ngày, nếu sức đề kháng tốt hoặc được điều trị đúng, bệnh sẽ lui dần, các triệu chứng trên sẽ mất đi rất nhanh. Nhưng khi sức đề kháng yếu (trẻ em, người cao tuổi), không được chữa trị kịp thời, bệnh diễn biến phức tạp hơn, nặng hơn và có thể gây biến chứng như viêm tai, viêm mũi, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm xoang hoặc nhiễm khuẩn huyết hoặc viêm phổi nặng hoặc trở thành viêm họng mạn tính. Trong trường hợp viêm họng do vi khuẩn liên cầu nhóm A, có thể gây nên bệnh thấp tim tiến triển hoặc viêm cầu thận cấp. Phòng ngừa và điều trị Tùy từng trường hợp mà các bác sĩ sẽ kê thuốc cho phù hợp như: kháng sinh, kháng viêm đường uống, hạ sốt, giảm đau, giảm phù nề, chống dị ứng... Khi bị viêm họng, chăm sóc và điều trị tại nhà cũng cần được lưu ý. Nếu bệnh nhân bị viêm họng do virus, cần chú ý uống nhiều nước để ngăn ngừa tình trạng mất nước; Súc họng bằng nước muối (1 thìa cà phê muối trong 50ml nước). Có thể dùng máy tạo ẩm, nghỉ ngơi cho tới khi thấy khỏe mạnh. Nếu đau họng có thể dùng thuốc ngậm họng để giảm đau và ngứa họng. Có thể dùng một số thuốc từ thiên nhiên để điều trị: mật ong, cam thảo,... Khi bị đau họng, gây cảm giác nóng rát và khó chịu làm uống hoặc ăn khó hơn, thậm chí gây tổn thương niêm mạc viêm của vùng họng. Vì vậy, người bệnh cần sử dụng thực phẩm mềm và rất dễ nuốt để hạn chế kích thích niêm mạc họng khi đang trong tình trạng sung huyết. Thực phẩm và đồ uống ấm cũng có thể giúp làm dịu cổ họng. Lời khuyên của thầy thuốc Khí hậu nắng nóng thường gây ra hiện tượng khát nên phải uống nhiều nước. Tuy nhiên, nước có nhiệt độ thấp, sự chênh lệch nhiệt độ khi uống dẫn đến hiện tượng kích thích niêm mạc họng, thanh quản gây viêm. Khi sử dụng thực phẩm, nên chú ý đừng để quá lạnh, nhất là những người đã biết có cơ địa dị ứng. Mùa hè, cần giữ ấm vùng cổ khi sử dụng điều hòa nhiệt độ dưới 26 độ. Nếu điều hòa không được vệ sinh thường xuyên sẽ là yếu tố thuận lợi làm cho nấm phát triển và phát tán vào không khí trong nhà, khi niêm mạc họng suy yếu nấm sẽ gây viêm họng. Mùa hè lại là mùa khô, nóng nên dễ phát tán bụi bẩn ra không khí ở khu vực rộng, do vậy nên dùng bảo hộ lao động đúng quy định khi làm việc trong môi trường ô nhiễm bụi bẩn hoặc hóa chất.   Theo Sức khỏe và đời sống

ĐIỂM MẶT BỆNH DA THƯỜNG GẶP VÀO MÙA HÈ

Mỗi khi môi trường bị ô nhiễm, khí hậu nóng bức thì da là một trong các cơ quan của con người sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Bệnh của da có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng ở trẻ em và người cao tuổi dễ mắc bệnh về da hơn do trẻ em thì sức đề kháng của cơ thể chưa được hoàn thiện và người cao tuổi thì sức đề kháng càng ngày càng bị suy giảm. Các bệnh da thường gặp mùa hè Rôm sảy là bệnh ngoài da thường gặp nhất ở trẻ em trong những ngày hè nóng nực, đặc biệt là những trẻ có nhiều mồ hôi do tuyến mồ hôi bị bít kín, không thoát ra ngoài được. Viêm da do nhiễm khuẩn cũng rất hay gặp, đó là viêm da do liên cầu (Streptococcus) hoặc do tụ cầu, đặc biệt là tụ cầu vàng. Loại viêm da này thường gặp ở trẻ nhiều hơn. Có thể bị nhiễm khuẩn da bởi liên cầu hoặc tụ cầu ở một vùng nào đó (da đầu, trán...) hoặc có thể rải rác toàn thân. Bệnh da do nhiễm khuẩn cũng gây ngứa, các nốt da bị viêm thường có mụn mủ. Đối với viêm da do liên cầu thì các mụn mủ thường rất nhỏ, bằng đầu đinh ghim nhưng đối với mụn mủ do tụ cầu thì to hơn, thực chất các mụn mủ này là các ổ áp-xe, nếu ở da đầu thì người ta hay gọi là chốc đầu. Viêm da do tụ cầu đáng ngại nhất là loại viêm da do tụ cầu vàng (S. aureus) bởi vì vi khuẩn này có độc lực cao, sức đề kháng rất mạnh và kháng lại hầu hết các loại kháng sinh, ngay cả các loại kháng sinh thế hệ mới. Viêm da dị ứng hay còn gọi là viêm da cơ địa gặp ở một số cơ thể có cơ địa dị ứng. Viêm da dị ứng điển hình là loại bệnh chàm. Bệnh chàm thường có gây ngứa, có thể là chàm mạn tính hoặc chàm cấp tính. Hầu hết bệnh chàm thường có tiến triển thành chàm mạn tính. Đối với bệnh chàm có nhiều dạng khác nhau như chàm tiếp xúc (do da thường xuyên tiếp xúc với các dị nguyên), chàm tiết bã (do cơ địa tăng tiết bã nhờn), chàm vi khuẩn (bệnh chàm có kèm theo bội nhiễm vi khuẩn) hay chàm thể tạng. Vùng da thường xuất hiện bệnh chàm là má, cánh mũi, cằm, nách, bẹn, khuỷu tay, khoeo chân. Biểu hiện của bệnh chàm điển hình nhất là ngứa, nổi ban đỏ, nổi mụn nước nhỏ li ti. Các mụn nước có thể tự khô rồi tróc vảy hoặc vỡ một cách tự nhiên hoặc do ngứa mà người bệnh không kiềm chế được, phải gãi làm xây xước da và vỡ các mụn nước của chàm. Nếu người bệnh không kiềm chế được (hoặc không kiềm chế được trẻ), để người bệnh gãi nhiều sẽ gây chảy máu và bội nhiễm vi khuẩn gây mưng mủ. [[{"fid":"2762","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 510px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Viêm da ứ trệ - bệnh da loại này hay gặp ở người trưởng thành, nhất là người cao tuổi. Biểu hiện của bệnh là có các đám da đỏ ở vùng cổ chân, da thường thô, ráp, ngứa nhiều, da vùng bị bệnh thường bị dày lên, ngứa và xuất hiện mụn nước. Nếu gãi làm vỡ các mụn nước sẽ bị nhiễm khuẩn tạo thành các mụn mủ. Một bệnh khác của da làm cho cả người bệnh và người tiếp xúc thấy ái ngại là bệnh vảy nến. Bệnh vảy nến là một bệnh đáng lo ngại nhất của da. Người ta gọi bệnh vảy nến bởi vì vảy có màu trắng đục, bóng giống màu của nến. Một số bệnh vảy nến thuộc loại nặng như vảy nến thể khớp hoặc bệnh vảy nến đỏ da toàn thân. Bệnh vảy nến ít nguy hiểm nhưng làm cho người bệnh khó chịu và những người xung quanh thấy ái ngại khi tiếp xúc vì nhìn thấy vảy có nhiều tầng chồng lên nhau, dễ bong ra, nhất là khi cạo ra có các mảnh vụn trắng như phấn. Hơn nữa, vảy tạo ra rất nhanh, bong lớp này  thì xuất hiện lớp khác ngay. Bệnh hắc lào: bệnh này do một loại nấm gây ra và có khả năng lây lan mạnh cho các vùng da khác trong cơ thể và lây cả cho người khác nếu ngủ chung giường, mặc chung quần áo, chăn màn, dùng chung khăn tắm... Ngoài ra, người ta cũng thường thấy một số khác bệnh của da như bệnh tổ đỉa, viêm nang lông, lang ben... Phòng bệnh ngoài da thế nào? Bệnh ngoài da có nhiều loại khác nhau, có loại biết được căn nguyên nhưng có những loại bệnh chưa xác định được căn nguyên. Việc phòng bệnh cho da nói chung là cần vệ sinh da sạch sẽ hằng ngày như tắm, gội. Mỗi lứa tuổi cũng có các biện pháp vệ sinh da khác nhau. Không nên dùng các loại xà phòng có độ tẩy cao và đã từng gây dị ứng khi tiếp xúc các lần dùng trước đó. Môi trường sống cần trong sạch, ít bụi. Không ăn các loại thức ăn đã từng bị dị ứng vì nó. Không mặc quần áo chung, không dùng khăn chung và khi biết người có bệnh về da có khả năng lây cho người khác thì không nên nằm chung giường, chiếu, đắp chung chăn. Khi nghi ngờ bị bệnh về da, nên đi khám bác sĩ chuyên khoa da liễu để biết được bệnh, tình trạng của bệnh  cũng như sẽ có chỉ định điều trị thích đáng và bác sĩ khám bệnh sẽ hướng dẫn phương pháp phòng ngừa thích hợp cho từng người. Phòng bệnh rôm sảy cho trẻ bằng cách cho trẻ mặc quần áo rộng, thấm mồ hôi, tốt nhất là chất liệu cotton. Cho trẻ chơi ở những nơi thoáng mát, tắm gội thường xuyên và ăn uống đồ mát như bột sắn, đỗ đen...   Theo Sức khỏe và đời sống

CÁCH SƠ CẤP CỨU NGƯỜI BỊ ĐUỐI NƯỚC

Thời tiết nóng bức vào mùa hè khiến số người đi bơi tăng lên. Không chỉ đến các bể bơi, nhiều người còn tìm đến các ao hồ sông suối, dẫn đến việc xảy ra các vụ đuối nước thương tâm. Trang bị kỹ năng cần thiết khi đi bơi, tìm đến những nơi có thể bơi lội an toàn... sẽ giúp giảm tai nạn đuối nước. Bên cạnh đó còn một vấn đề nữa vô cùng quan trọng. Đó là trang bị kỹ năng sơ cứu khi bị đuối nước. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, việc cứu người bị tai nạn đuối nước còn nhiều bất cập hay thậm chí sai lầm. Các tình huống ngạt nước Một số tình huống gây nên tình trạng ngạt nước là ngạt nước do kiệt sức hoặc không biết bơi; Ngạt nước (nước giật, sốc nước) do ngất khi tiếp xúc với nước; Ngạt nước do chấn thương; Ngạt nước do nhiệt hoặc chênh lệch nhiệt; Ngạt nước do dị ứng (hiếm gặp); Ngạt nước do sợ hãi (thường ở trẻ em); Ngạt nước trong khi lặn (ngất do chấn thương áp lực tai, phản xạ hít vào sau khi nhịn thở kéo dài, thiếu máu não do kiềm hô hấp, tai biến do giảm áp quá nhanh...). Đuối nước thường dẫn đến tử vong Đuối nước là tình trạng nước tràn vào đường hô hấp làm cho các cơ quan bị thiếu ôxy và các chức năng sống của cơ thể ngừng hoạt động. Người ta thống kê thấy khoảng 4/5 trường hợp chết đuối mà trong phổi có nước và 1/5 còn lại chết đuối nhưng phổi không có nước. Sở dĩ có tình trạng chết đuối mà trong phổi không có nước là do người không biết bơi bất ngờ bị chìm trong nước, nạn nhân hoảng sợ khiến các phản xạ bị rối loạn làm cơ thể bị chìm, phản xạ co cơ nắp thanh quản và đóng khí quản lại làm nạn nhân không thở được dẫn đến thiếu ôxy não và bất tỉnh. Từ chỗ nắp thanh quản bị đóng nên nước cũng không vào phổi được. Đó cũng được gọi là chết đuối khô. Vì vậy khi gặp trường hợp đuối nước cần xử trí khẩn trương, kiên trì, ngay tại chỗ để giải phóng đường hô hấp. Cách cấp cứu người bị đuối nước. Nguyên tắc cấp cứu tại chỗ Nguyên tắc này cần khẩn trương, đúng phương pháp với mục đích cấp cứu là giải phóng đường thở và cung cấp ôxy cho nạn nhân. Do vậy việc làm đầu tiên cần đưa nạn nhân ra khỏi nước: Nếu nạn nhân còn tỉnh giãy giụa dưới nước ta cần khẩn trương tìm cách đưa họ lên bờ. Nếu không biết bơi ta phải tìm khúc gỗ, phao... ném xuống cho họ bám vào để lên bờ hoặc chạy ngay đi tìm người đến cứu. Tuyệt đối không nhảy xuống nước nếu không biết bơi. Vì nạn nhân lúc này trong tình trạng hoảng loạn, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì với được, kể cả người cứu nạn. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở. Chỉ xuống cứu khi người cứu biết bơi, nếu không biết bơi cần gọi người hỗ trợ hoặc dùng thuyền nếu có để ra cứu. [[{"fid":"2755","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 537px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Cách sơ cứu khi trẻ bị ngạt nước Bước 1: Nhanh chóng đưa trẻ ra khỏi mặt nước bằng mọi cách. Bước 2: Đặt trẻ nằm chỗ khô ráo, thoáng khí. Bước 3: Nếu trẻ bất tỉnh, hãy kiểm tra xem trẻ còn thở không bằng cách quan sát lồng ngực có di động hay không. Nếu lồng ngực không di động, tức là trẻ ngừng thở thì phải hô hấp nhân tạo (thổi ngạt bằng miệng) ngay lập tức. Sau khi thổi ngạt 2 cái, cần kiểm tra xem tim trẻ còn đập hay không bằng cách bắt mạch cảnh, bẹn, hoặc áp tai vào lồng ngực bên trái xem có tiếng tim đập không. Nếu không bắt được mạch chứng tỏ tim trẻ đã ngừng đập, cần phải hô hấp nhân tạo kèm theo ép tim ngoài lồng ngực (ép ở 1/2 dưới xương ức bên trái) theo tỷ lệ 15/2 (nghĩa là ép tim 15 cái thì thổi ngạt 2 cái) nếu có 2 người, hoặc 30/2 nếu có 1 người. Sau đó vừa làm vừa đưa trẻ đi viện. Nếu trẻ còn tự thở, cho trẻ nằm nghiêng sang một bên. Cởi bỏ quần áo ướt, giữ ấm. Nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện gần nhất vì có thể sẽ xảy ra khó thở tái diễn. Những việc làm không đúng cần tránh Nhiều người thường có thói quen dốc ngược nạn nhân, vác lên vai rồi chạy, đây là hành động hoàn toàn sai vì thứ nhất, nó làm mất thời gian quý giá để hô hấp nhân tạo cứu sống bệnh nhân. Thứ 2 là khi ngạt nước thực ra nước ở trong phổi không nhiều như mọi người nghĩ, nó sẽ được tống ra ngoài khi ta hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực và khi bệnh nhân thở trở lại. Không hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực khi vận chuyển tới bệnh viện sẽ làm mất thời gian cứu nạn nhân, gây ra di chứng não sau này nếu bệnh nhân còn sống. Điều này là do thiếu ôxy ở các tổ chức trong một thời gian dài, đặc biệt là não. Lời khuyên của thầy thuốc Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không. Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền. Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát. Đặc biệt, trẻ em khi bơi phải được người lớn giám sát thường xuyên và không được rời mắt để làm công việc khác. Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để những lu nước, thùng nước, nếu bắt buộc phải có (như vùng phải tích trữ nước ngọt để dùng) nên đậy thật chặt để trẻ em không mở nắp được.   Theo Sức khỏe và đời sống

NGỪA CÁC BỆNH GIA TĂNG ĐẦU HÈ

Vào hè thời tiết nóng kết hợp mưa nhiều khiến các bệnh dễ sinh sôi, bùng phát và lây lan. Mọi người cần nắm được thông tin để biết cách ngừa bệnh. Thời tiết mùa hè nóng nực, nhiệt độ tăng cao kết hợp với mưa nhiều là thời điểm lý tưởng để các loại vi khuẩn, virus sinh sôi và phát triển. Dưới đây là 3 bệnh thường bùng phát và lây lan rất nhanh vào mùa hè. Mọi người cần biết cách phòng tránh. Đau mắt đỏ Thời gian ủ bệnh đau mắt đỏ trung bình khoảng 8 ngày và thời gian phát bệnh kéo dài vài ngày, vài tuần hoặc lâu hơn tùy thuộc vào nguyên nhân và phương pháp điều trị. Bệnh có thể gặp ở mọi giới, mọi lứa tuổi và dễ lây. Các nguyên nhân và triệu chứng đau mắt đỏ thường gặp như: Do virus: Đây là nguyên gây bệnh hay gặp nhất với các triệu chứng ra ghèn dây, ngứa, chảy nước mắt do cộm, sưng mi, thị lực giảm, chói sáng khi biến chứng khô mắt. Bệnh rất dễ lây khi tiếp xúc trực tiếp với nước mắt bệnh nhân; ho, hắt hơi khi viêm họng hay cảm cúm đi kèm. Do vi khuẩn: Thường là do vi khuẩn Staphylococcus. Bệnh có thể gây ra những tổn thương nặng nếu không được điều trị kịp thời. Các triệu chứng thường gặp như ghèn vàng hay màu vàng xanh nhạt gây dính 2 mi mắt khi thức dậy vào buổi sáng, ngứa và chảy nước mắt, nếu bệnh nặng có thể gây viêm loét giác mạc, giảm thị lực không phục hồi. Bệnh lây qua dịch tiết nước mắt hoặc vật dụng dính dịch tiết mắt. Do dị ứng: Như bụi, lông vật nuôi, phấn hoa, thuốc... Bệnh không lây nhưng thường rất khó xác định chính xác tác nhân gây dị ứng, xảy ra theo mùa, kéo dài hay tái phát. Bệnh có các triệu chứng như chảy nước mắt, ngứa mắt nhiều, viêm mũi dị ứng... Bệnh thường khỏi trong khoảng 7-10 ngày. Tuy nhiên, nếu phát hiện chậm hoặc đưa ra phương án chữa trị không hợp lý có thể gây ra rất nhiều biến chứng nguy hiểm như loét giác mạc, viêm giác mạc, thậm chí là mù lòa. Do đó, để chủ động phòng bệnh, bạn cần tuân thủ một số điều sau: Mang kính khi đi ra đường để hạn chế không khí ô nhiễm, vi khuẩn, virus tấn công. Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, không đưa tay lên dụi mắt. Không dùng chung vật dụng cá nhân với người khác, đặc biệt là mắt kính, khẩu trang, thuốc nhỏ mắt... Thường xuyên vệ sinh mắt, mũi, họng bằng các loại thuốc nhỏ chuyên dụng. Hạn chế tiếp xúc với người bệnh hoặc người nghi bị đau mắt đỏ. [[{"fid":"2742","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 375px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Thời tiết mùa hè thích hợp cho muỗi vằn sinh trưởng, gây bệnh sốt xuất huyết. Sốt xuất huyết Mùa hè đi kèm với nắng gắt mưa nhiều khiến muỗi vằn dễ sinh sôi và truyền bệnh sốt xuất huyết. Bệnh do virus Dengue gây ra và dễ tạo thành dịch. Sau thời gian ủ bệnh, sốt xuất huyết sẽ phát bệnh ra bên ngoài. Kể từ thời gian phát bệnh với những cơn sốt cao đầu tiên, bệnh sẽ khỏi dần trong 7-10 ngày sau đó. Bệnh thường diễn biến nhanh, các biểu hiện nặng dần theo từng giai đoạn: Giai đoạn sốt: thường kéo dài trong 3 ngày, có khi tới 7 ngày. Người bệnh có triệu chứng mệt mỏi, nhức đầu, đau nhức mình mẩy, đau hai hốc mắt, đau khớp, đau cơ, buồn nôn, chán ăn, có khi đau vùng thượng vị kèm tiêu chảy. Giai đoạn xuất huyết: Thường kéo dài 3-4 ngày, xảy ra vào ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 kể từ khi bị sốt. Lúc này, bệnh nhân thường chỉ còn sốt nhẹ hoặc hết sốt, xuất huyết dưới da, các nốt ban đỏ nổi lên ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong cánh tay, bụng, đùi, mạn sườn. Xuất huyết niêm mạc như chảy máu mũi, lợi và đi tiểu ra máu. Trường hợp nặng có thể dẫn đến xuất huyết nội tạng như chảy máu dạ dày, xuất huyết não, biến chứng suy tạng như viêm gan, viêm não, viêm cơ tim. Giai đoạn hồi phục: Qua giai đoạn nguy hiểm chừng 7 ngày từ khi sốt, bệnh nhân bước vào giai đoạn hồi phục, kéo dài trong 2-3 ngày. Lúc này, thể trạng bệnh nhân tốt dần lên. Người bệnh hết sốt, cảm giác thèm ăn và bắt đầu đi tiểu nhiều. Mọi người cần chủ động phòng bệnh sốt xuất huyết với các biện pháp như: đậy kín dụng cụ chứa nước, lật úp vật dụng không cần thiết, loại bỏ các dụng cụ phế thải, các hốc nước tự nhiên, thay nước bình hoa thường xuyên... Dọn dẹp nhà cửa gọn gàng, đặc biệt như gầm giường, hốc tủ..., phát quang các bụi rậm quanh nhà để không còn nơi cho muỗi trú ngụ. Sử dụng thuốc xịt muỗi, hương diệt muỗi, thoa thuốc chống muỗi thường xuyên. Mắc màn khi ngủ ngay cả ban ngày để phòng muỗi đốt. Khi có dấu hiệu bị sốt thì nên đến ngay cơ sở y tế để khám chứ không được tự ý điều trị tại nhà. Bệnh tiêu chảy Bệnh tiêu chảy cấp là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm, với các triệu chứng chính là tiêu chảy nhiều lần trong ngày, nôn, mất nước, rối loạn điện giải, nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong. Tiêu chảy kéo dài dưới 2 tuần được gọi là tiêu chảy cấp. Tiêu chảy mạn tính kéo dài hơn 4 tuần. Nguyên nhân gây tiêu chảy có thể kể đến như: Virus: Rotavirus là một nguyên nhân phổ biến của tiêu chảy cấp ở trẻ em, còn người lớn là norovirus. Vi khuẩn và ký sinh trùng: Thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm có thể truyền vi khuẩn và ký sinh trùng vào cơ thể. Tiêu chảy do độc tố vi khuẩn: Vibrio cholerae, E. coli, Clostridium difficile, tụ cầu... Để phòng tránh tiêu chảy hiệu quả, mọi người cần thực hiện như sau: ăn chín, uống sôi, đậy kỹ đồ ăn thức uống, không nên ăn thức ăn để quá lâu. Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt trước khi chế biến thức ăn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Đặc biệt, chú ý lau dọn nhà bếp, nhà vệ sinh thường xuyên để loại bỏ vi khuẩn gây bệnh.   Theo Sức khỏe và đời sống

BỆNH THALASSEMIA CÓ THỂ PHÒNG NGỪA

Thalassemia là bệnh lý huyết học di truyền phổ biến nhất trên thế giới. Người bình thường có 2 gene khỏe mạnh, người bị bệnh có 2 gene bệnh, người mang gene có 1 gene bệnh và 1 gene khỏe mạnh. Bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Bệnh có ở mọi quốc gia, dân tộc, bệnh xuất hiện ở cả nam và nữ. Ước tính trên thế giới hiện có khoảng 7% dân số mang gene bệnh; 1,1% các cặp vợ chồng có nguy cơ sinh con bị bệnh; 0,27% trường hợp có thai sinh ra con bị bệnh HST; mỗi năm có khoảng 300.000 - 500.000 trẻ sinh ra bị bệnh Thalassemia mức độ nặng. Nguyên nhân gây bệnh và dấu hiệu nhận biết Do sự thiếu hụt tổng hợp một chuỗi globin trong huyết sắc tố của hồng cầu, chất lượng hồng cầu suy giảm làm hồng cầu dễ bị vỡ (tan máu) dẫn đến thiếu máu mạn tính. Biểu hiện nhận biết bệnh như: mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, da xanh nhợt nhạt hơn bình thường, da, củng mạc mắt vàng, nước tiểu sẫm màu, chậm lớn, khó thở khi làm việc gắng sức... Nếu người bệnh không được điều trị sớm, đầy đủ sẽ xuất hiện nhiều biến chứng do thiếu máu và thừa sắt gây ra trên tất cả các cơ quan làm thay đổi diện mạo người bệnh như thể trạng thấp bé, trán dô, mũi tẹt, hàm răng hô, suy tim, suy gan, suy nội tiết. [[{"fid":"2740","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","link_text":null,"attributes":{"height":"750","width":"1000","style":"width: 500px; height: 375px;","class":"media-element file-default"}}]] Thalassemia có 2 thể bệnh là Alpha-Thalassemia và Beta-Thalassemia. Mức độ biểu hiện Bệnh có 5 mức độ biểu hiện tùy theo số lượng gene bị tổn thương: Mức độ rất nặng có biểu hiện phù thai từ khi còn trong bụng mẹ (những trường hợp thường gây hỏng thai trước khi sinh). Mức độ nặng có biểu hiện thiếu máu nặng khi trẻ chưa đến 2 tuổi; Mức độ trung bình thường có biểu hiện thiếu máu rõ khi trẻ trên 6 tuổi; Mức độ nhẹ, triệu chứng máu thường rất kín đáo, người bệnh thường chỉ được phát hiện khi có kèm theo bệnh lý khác như nhiễm trùng, phẫu thuật, có thai... Thể ẩn không có biểu hiện gì khác biệt, không thiếu máu (thậm chí có thể hiến máu được). Đối với bệnh nhân mức độ nặng và trung bình cần: Truyền máu định kỳ và dùng thuốc thải sắt suốt cuộc đời. Đến khám và điều trị đúng hẹn; Khám lại ngay khi có dấu hiệu bất thường như: mệt nhiều, đau tim, khó thở, sốt cao, phù... Phẫu thuật cắt lách giúp kéo dài khoảng cách thời gian giữa các đợt truyền máu.  Ghép tế bào gốc điều trị bệnh, biện pháp này cần phải đáp ứng điều kiện ngặt nghèo hơn như: phải tìm được nguồn tế bào gốc phù hợp, điều kiện sức khỏe đảm bảo, các chi phí ghép... Bệnh có thể phòng ngừa? Thalassemia là bệnh có thể phòng tránh được. Do vậy, việc phòng tránh, tìm hiểu và được tư vấn, tầm soát gene bệnh sớm, trước kết hôn sẽ hạn chế được nguy cơ sinh ra những đứa trẻ mang gene hoặc bị bệnh, góp phần đảm bảo chất lượng dân số cho cộng đồng. Cần hiểu biết được cơ chế di truyền thì hoàn toàn có thể phòng tránh được. Tránh không sinh ra trẻ mang 2 gene bệnh do nhận từ cả bố và mẹ bằng các biện pháp như: Tầm soát và phòng tránh bệnh từ sớm: Với các biện pháp xét nghiệm, tư vấn tiền hôn nhân. Các cặp vợ chồng chuẩn bị có thai hoặc đang mang thai, đặc biệt các gia đình đã có người bệnh Thalassemia nên được tư vấn và chẩn đoán tiền hôn nhân. Sàng lọc  phát hiện bệnh sớm cho thai nhi: Phòng ngừa bằng các xét nghiệm tầm soát và chẩn đoán gene đột biến trong thai kỳ. Đây là biện pháp hiệu quả và chi phí thấp. Nếu cả vợ và chồng đều mang gene thì thai nhi có 25% nguy cơ bị mắc bệnh ở thể nặng, trường hợp này cần được thực hiện chẩn đoán trước sinh bằng phương pháp chọc ối hoặc sinh thiết gai nhau và tìm đột biến gene. Chăm sóc dinh dưỡng và sức khỏe khi bị bệnh Người bệnh Thalassemia có thể sinh hoạt, làm việc, kết hôn và sinh con khi được điều trị đầy đủ, tuân thủ các phác đồ điều trị và có chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt hợp lý. Chế độ dinh dưỡng cần lưu ý cân bằng các chất giàu dinh dưỡng;  Không ăn thức ăn chứa nhiều sắt (thịt bò, mộc nhĩ, rau cải xoong...);  Để hạn chế hấp thu sắt khi ăn từ các thực phẩm sau bữa ăn nên uống 1 cốc nước chè xanh;  Bổ sung các thực phẩm giàu kẽm (sò, củ cải đường, đậu nành...). Chế độ sinh hoạt, sinh hoạt bình thường, hạn chế lao động nặng các hoạt động gắng sức. Tránh bị nhiễm trùng: rửa tay thường xuyên, tiêm vắc xin phòng bệnh. Vận động, tập luyện các môn thể thao nhẹ nhàng, phù hợp…   Theo Sức khỏe và đời sống

CHỚM HÈ, NÊN CẢNH GIÁC VỚI SỐT XUẤT HUYẾT

Sốt xuất huyết là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến, xuất hiện theo mùa và nếu không có biện pháp điều trị kịp thời sẽ gây ra biến chứng nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh. Sốt xuất huyết (SXH) là bệnh do virus Dengue gây nên và hiện chưa có vắc-xin phòng ngừa hoặc thuốc đặc trị. SXH chủ yếu gây bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.Tại nước ta, bệnh SXH có thể xuất hiện ở bất cứ tỉnh thành nào và vào bất cứ mùa nào trong năm, tuy nhiên, đỉnh dịch thường vào mùa mưa. Virus Dengue có 4 type huyết thanh là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Bệnh nhân nhiễm với chủng virus nào thì chỉ có khả năng tạo miễn dịch suốt đời với chủng virus đó. Chính vì vậy mà những người sống trong vùng lưu hành dịch SXH Dengue có thể mắc bệnh SXH nhiều hơn 1 lần trong đời. Virus Dengue truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi đốt. Muỗi vằn (Aedes aegypti) là côn trùng trung gian truyền bệnh chủ yếu. Bệnh SXH có biểu hiện lâm sàng đa dạng, tùy từng trường hợp, diễn biến nhanh chóng từ nhẹ đến nặng. Bệnh thường khởi phát đột ngột và diễn biến qua 3 giai đoạn: giai đoạn sốt từ ngày 1-7 của bệnh, giai đoạn nguy hiểm thường từ ngày thứ 3-7 của bệnh và giai đoạn hồi phục từ ngày thứ 7 trở đi. [[{"fid":"2736","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 375px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Phun hóa chất phòng chống sốt xuất huyết trong khu dân cư. Triệu chứng lâm sàng, giai đoạn và các cấp độ của bệnh SXH Triệu chứng lâm sàng thường gặp ở SXH gồm: Sau thời gian ủ bệnh, kéo dài từ 4-10 ngày sau khi bị muỗi mang mầm bệnh đốt, người bệnh sẽ sốt cao đột ngột, liên tục từ 2-7 ngày, có thể lên đến 40,5 độ C; Đau phía sau mắt; Đau nhức đầu nghiêm trọng; Đau khớp và cơ; Phát ban; Buồn nôn và ói mửa; Chán ăn. Từ ngày thứ 4, bệnh nhân có thể xuất huyết với các biểu hiện: Xuất huyết dưới da, nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết, thường ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, bụng, đùi, mạng sườn hoặc mảng bầm tím. Xuất huyết ở niêm mạc: Chảy máu mũi, lợi, tiểu ra máu. Kinh nguyệt kéo dài hoặc xuất hiện kinh sớm hơn kỳ hạn... Dấu hiệu cảnh báo khi mắc SXH cần đặc biệt lưu ý: gồm các triệu chứng lâm sàng của SXH kèm theo các dấu hiệu cảnh báo sau: vật vã, lừ đừ, li bì. Đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan. Nôn nhiều. Xuất huyết niêm mạc. Tiểu ít... Dấu hiệu xuất huyết nặng: Từ khi có xuất huyết, người bệnh cần theo dõi kỹ các dấu hiệu bệnh dễ trở nặng khi có 1 trong các biểu hiện sau: Người bệnh có thể bị xuất huyết nội tạng (đường tiêu hóa và xuất huyết não), triệu chứng SXH ở người lớn gây xuất huyết đường tiêu hóa sẽ bao gồm: đau đầu bình thường và sốt nhẹ, không phát ban. Sau khoảng 2 ngày khi xuất huyết, người bệnh sẽ đi ngoài ra máu, phân có màu đen hoặc đi ngoài ra máu tươi, trên da bắt đầu xuất hiện các chấm xuất huyết, người mệt mỏi, da xanh tái... Một số trường hợp người bệnh bị chảy máu cam nặng (cần nhét gạc vách mũi), rong kinh nặng, xuất huyết trong cơ và phần mềm. Xuất huyết đường tiêu hóa và nội tạng, thường kèm theo tình trạng sốc nặng, giảm tiểu cầu, thiếu ôxy mô và toan chuyển hóa có thể dẫn đến suy đa phủ tạng và đông máu nội mạch nặng. SXH đặc biệt nguy hiểm khi biến chứng thành xuất huyết não. Trường hợp xuất huyết não sẽ rất khó nhận biết vì triệu chứng SXH ở người lớn sẽ không rõ ràng, có thể người bệnh chỉ bị sốt, đau đầu, liệt chân, tay hoặc liệt nửa người và sau đó bị hôn mê, dễ dẫn đến tử vong. Hội chứng sốc trong SHX: Đây là thể bệnh nặng nhất của bệnh SXH bao gồm tất cả các triệu chứng của bệnh SXH thể nhẹ cộng với triệu chứng chảy máu, huyết tương thoát khỏi mạch máu, chảy máu ồ ạt, hạ huyết áp... Suy tuần hoàn cấp, dễ xảy ra vào ngày thứ 3-7 của bệnh, biểu hiện bởi các triệu chứng như vật vã; bứt rứt hoặc li bì; lạnh đầu chi, da lạnh ẩm; mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20mmHg) hoặc tụt huyết áp hoặc không đo được huyết áp; tiểu ít. Lời khuyên của thầy thuốc Trong quá trình diễn biến, bệnh có thể chuyển từ mức độ nhẹ sang mức độ nặng, vì vậy, người bệnh khi có những dấu hiệu mắc SXH, cần phải đi khám ngay để bác sĩ  chẩn đoán, đánh giá mức độ bệnh và có hướng điều trị phù hợp. Người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ chỉ định của bác sĩ và thông báo các dấu hiệu khi bệnh có diễn tiến bất ngờ hoặc trở nặng nhanh. Cách phòng bệnh sốt xuất huyết Người dân cần nêu cao ý thức phòng bệnh SXH cho bản thân, gia đình và cộng đồng, thực hiện các biện pháp theo khuyến cáo như: ngủ màn, mặc quần áo dài phòng muỗi đốt ngay cả ban ngày. Đậy kín tất cả các dụng cụ chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng. Thường xuyên thực hiện các biện pháp diệt lăng quăng/bọ gậy bằng cách thả cá vào dụng cụ chứa nước lớn; thau rửa dụng cụ chứa nước vừa và nhỏ, lật úp các dụng cụ không chứa nước; thay nước bình hoa; bỏ muối, dầu hoặc hóa chất diệt côn trùng vào bát nước kê chân chạn. Loại bỏ các vật liệu phế thải, các hốc nước tự nhiên như chai, lọ, mảnh chai, vỏ dừa, mảnh lu vỡ, lốp xe cũ, hốc tre, bẹ lá... không cho muỗi đẻ trứng. Tích cực phối hợp với ngành y tế trong các đợt phun hóa chất phòng, chống dịch... Theo Sức khỏe và đời sống

VIỆT NAM CHƯA TÍNH ĐẾN THỜI ĐIỂM CÔNG BỐ HẾT DỊCH

Ngày 3/5, Việt Nam đã bước vào ngày thứ 17 không phát hiện ca bệnh mắc mới trong cộng đồng. Theo quy định hiện hành, 28 ngày tính từ ngày bệnh nhân cuối cùng từ cộng đồng được cách ly và không phát sinh bệnh nhân mới có thể tính đến công bố hết dịch... Dịch bệnh bên ngoài vẫn phức tạp Kể từ khi nước ta ghi nhận bệnh nhân lây lan từ cộng đồng cuối cùng (bệnh nhân 268) được cách ly từ 7/4 và hiện đã khỏi bệnh, tính đến thời điểm 3/5 đã là 25 ngày. Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên - Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia Phòng chống dịch COVID-19, Ban Chỉ đạo vẫn chưa tính đến thời điểm công bố hết dịch vì không thể chủ quan, trong đó số ca mắc mới ghi nhận trên thế giới vẫn còn cao... [[{"fid":"2734","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 333px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Việc tụ tập đông người tại một số điểm du lịch trong kỳ nghỉ lễ vừa qua là rất đáng lo ngại Trả lời về việc đã nhiều ngày Việt Nam không ghi nhận ca mắc COVID-19 trong cộng đồng, liệu có triển vọng tiến tới công bố hết dịch, PGS.TS. Trần Đắc Phu, Cố vấn cao cấp Trung tâm đáp ứng khẩn cấp sự kiện y tế công cộng Việt Nam cho biết, điều kiện để công bố hết dịch theo quy định là không phát hiện thêm trường hợp mắc bệnh mới sau khoảng thời gian nhất định. Đối với bệnh COVID-19 là 28 ngày, được tính từ ngày trường hợp mắc bệnh gần nhất được cách ly tại cơ sở y tế. Theo Quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, khi xác định dịch hết nguy cơ và phải đưa ra được các biện pháp triển khai tiếp việc phòng, chống, bảo đảm không còn lây lan mới được công bố hết dịch. Cũng theo PGS.TS. Trần Đắc Phu, trong bối cảnh người nhập cảnh vẫn còn về Việt Nam thời gian tới, nguy cơ trong cộng đồng vẫn còn nên chưa thể xác định được điều gì. Để công bố hết dịch hay không, Chính phủ còn phải xem xét, phân tích kỹ lưỡng trên mọi khía cạnh Chung sống an toàn và đừng quên 5 khuyến cáo phòng chống dịch PGS.TS. Trần Đắc Phu cho biết, Tổ chức Y tế Thế giới và nhiều nước đánh giá cao Việt Nam có nguồn lực hạn chế nhưng khống chế tốt dịch. Đến thời điểm này, số mắc ít, số tử vong không có, khống chế tốt hơn nhiều quốc gia nguồn lực tốt hơn. “Tôi nghĩ tới đây Việt Nam cũng ổn, nhưng chúng ta phải đề phòng, không chủ quan. Nếu có ca mắc sẽ là người nhập cảnh, mình tiếp tục cách ly, khống chế không để lây lan. Còn hiện tại, chúng ta đang thực hiện giãn cách cộng đồng tốt nhưng chưa thể dứt điểm 100% ca mắc” - PGS. Phu nhận định. Chuyên gia này cũng cho biết, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta xác định sống chung với dịch an toàn, bảo đảm mục tiêu kép, vừa làm kinh tế - xã hội, vừa bảo vệ sức khỏe. Mỗi loại hình, cơ sơ sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ phải thực hiện các điều kiện phòng bệnh cho người dân. Dựa trên hướng dẫn cơ bản của Bộ Y tế, các ngành sẽ xây dựng những quy định riêng. Bên cạnh đó, người dân cần thực hiện nguyên tắc “5 an toàn” mà Ban Chỉ đạo Quốc gia Phòng chống dịch COVID-19 đã khuyến cáo: Đeo khẩu trang; Giãn cách xã hội, tránh tụ tập đông người; Hạn chế ra ngoài, nhất là người có bệnh nền, mạn tính, người già; Vệ sinh khử khuẩn, không chỉ phòng COVID-19 mà còn phòng bệnh cúm, đặc biệt là bệnh tiêu hóa khi vào mùa hè; Tiếp tục khai báo y tế khi có triệu chứng sốt, ho, khó thở.   Theo Sức khỏe và đời sống

Trang