CẤP CỨU (24/24):
02053.800.115

ĐIỆN THOẠI HỖ TRỢ :02053.870.039

Y học thưởng thức

CÁCH SƠ CỨU NẠN NHÂN CÓ VẾT THƯƠNG CHẢY MÁU

Đa số các chấn thương nhẹ gây chảy máu như vết cắt, vết trầy thường không nghiêm trọng. Trường hợp động mạch hoặc tĩnh mạch lớn bị tổn thương, ví dụ tĩnh mạch cảnh ở cổ, nạn nhân có thể bị chảy máu trầm trọng, tính mạng bị đe dọa. Sơ cứu đúng cách và kịp thời có thể góp phần cứu sống người bệnh. [[{"fid":"2068","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","link_text":null,"attributes":{"height":"1190","width":"983","style":"width: 500px; height: 605px;","class":"media-element file-default"}}]] Chảy máu ngoài Các nguyên tắc chung: Ép trực tiếp lên vết thương đang chảy máu: Nhanh chóng ép trực tiếp lên vết thương. Nếu có điều kiện thì đặt lên vết thương một miếng gạc hoặc miếng vải sạch trước khi ép trực tiếp. Nếu vết thương chảy máu nhiều, đừng lãng phí thời gian tìm kiếm băng gạc, hãy dùng chính bàn tay của bệnh nhân hay bàn tay của bạn để ép vết thương lại (nếu nạn nhân không thể tự làm việc này). Nâng cao vùng bị tổn thương: - Ðặt nạn nhân nằm ở tư thế thoải mái thuận tiện, nâng cao vùng bị tổn thương để giảm áp lực máu tới vùng này. - Dùng băng cuộn hoặc dây vải băng ép miếng gạc hoặc miếng vải vào vết thương. Không băng quá chặt như hình thức ga rô. Vết thương đâm xuyên còn dị vật: Nếu các vết thương chảy máu có dị vật như mảnh gỗ, kim loại hoặc bất kỳ vật gì đâm vào và vẫn cắm ở vết thương thì không được rút dị vật ra. Bịt kín vết thương bằng cách ép mép vết thương sát với dị vật. Dùng miếng vải vuông hoặc một khăn tam giác quấn lại thành vòng đệm xung quanh dị vật, sau đó dùng băng ép lại như với vết thương không có dị vật, chú ý không gây áp lực trực tiếp lên dị vật. Để bệnh nhân nghỉ ngơi tuyệt đối: Kể cả khi bị thương ở tay hay nửa trên của người, bệnh nhân cũng cần được nghỉ ngơi trong tư thế thuận tiện ít nhất 10 phút để giúp cầm máu. Giữ yên tĩnh cho nạn nhân, động viên an ủi nếu nạn nhân tỉnh táo. Chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế nếu thấy cần thiết: Nếu vết thương nhỏ và nạn nhân có thể di chuyển bằng ô tô xe máy thông thường thì chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở y tế gần đó. Nếu vết thương nặng hay tình trạng nạn nhân xấu thì gọi cấp cứu càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi hoặc trên đường vận chuyển phải theo dõi sát tình trạng hô hấp, tuần hoàn của nạn nhân. Giữ ấm cho nạn nhân. Cố gắng tránh tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc các loại dịch khác từ cơ thể nạn nhân. Sử dụng găng tay dùng một lần nếu có thể. Nếu không có găng thì dùng túi nilon thông thường để thay thế. Nếu máu thấm qua gạc và băng: Nếu máu thấm qua gạc và băng thì dùng lớp băng thứ hai quấn chặt lên lớp băng cũ. Với các vết thương chảy máu quá mạnh không thể kiểm soát, cần nhanh chóng thay lớp gạc và băng thứ nhất đã sũng máu bằng lớp gạc và băng mới. Máu không cầm được có thể là do tấm gạc thứ nhất dùng để chèn vết thương đã bị trượt khỏi vị trí ban đầu. Chảy máu trong Chảy máu trong xuất hiện khi các mạch máu bên trong cơ thể bị vỡ và máu thoát ra khỏi hệ tuần hoàn. Hiện tượng này có thể xảy ra khi nạn nhân bị đập mạnh vào đầu, ngực hay bụng do ngã hoặc bị xe đâm. Người không có chuyên môn thường khó nhận biết các dấu hiệu của chảy máu trong. Cần nghi ngờ chảy máu trong khi xuất hiện máu trong dịch nôn, đờm, nước tiểu hoặc phân. Nạn nhân có thể thở nhanh, thở hổn hển, khát nước ngày càng tăng, ho ra máu đỏ tươi lẫn bọt, nôn ra máu đen như màu bã cà phê, nước tiểu đỏ tươi hay có màu gỉ sắt (nâu đỏ nhạt), phân đen như nhựa đường. Bệnh nhân nhợt nhạt, thấy lạnh, da ẩm ướt. Xử trí: - Ðặt nạn nhân nằm nghỉ ở tư thế thoải mái dễ chịu nhất. - Đắp chăn giữ ấm cho nạn nhân. - Trải tấm lót cho nạn nhân nằm lên trên nếu mặt đường gồ ghề hoặc nóng quá hay lạnh quá. - Gọi cấp cứu 115. Trong khi chờ đợi: - Xử lý các vết thương khác. - Nới rộng quần áo, nhất là ở vùng cổ và thắt lưng. - Trấn an người bệnh. - Không cho bệnh nhân ăn, uống hoặc hút thuốc lá.

SƠ CỨU ĐÚNG CÁCH NGƯỜI BỊ ĐUỐI NƯỚC

Hàng năm cứ vào hè lại có rất nhiều trường hợp đuối nước khi đi tắm biển, tắm hồ rất thương tâm. Khi bị đuối nước, nếu bệnh nhân được sơ cứu kịp thời, tích cực và đúng phương pháp sẽ có khả năng được cứu sống, nếu ngược lại thì khả năng tử vong rất cao hoặc có thể để lại di chứng tổn thương não nặng nề. Vì vậy, biết cách xử trí cấp cứu cho nạn nhân bị đuối nước là điều vô cùng quan trọng. Đuối nước và thời điểm vàng sơ cứu Đuối nước là một dạng của ngạt, do nước bị hít vào phổi, hoặc tắc đường thở do co thắt thanh quản khi nạn nhân ở trong nước. Đây là một tai nạn hay gặp, xảy ra trong khi bơi, đi thuyền và trong các hoạt động dưới nước. Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra tại nhà như trong bồn nước, chum vại, rãnh nước,... Khi bị ngạt nước, nạn nhân bị ngừng thở, tim đập chậm lại do phản xạ. Tình trạng ngừng thở tiếp tục dẫn đến thiếu ôxy máu, gây tăng nhịp tim, huyết áp. Nếu ngừng thở tiếp tục kéo dài trong khoảng từ 20 giây đến 2 - 5 phút (tùy thuộc từng nạn nhân) thì đạt đến ngưỡng và nhịp thở lại xuất hiện khiến cho nước bị hít vào gây co thắt thanh quản tức thì, xuất hiện cơn ngừng thở lần 2, sau đó là các nhịp thở bắt buộc khiến cho nước, dị vật bị hít vào phổi. Hậu quả là nhịp tim chậm dần lại, rối loạn nhịp, ngừng tim và tử vong. Để cứu sống nạn nhân ngạt nước phải ngăn chặn kịp thời các tiến trình trên, tốt nhất là ngay từ khi có cơn ngừng thở đầu tiên tức là trong vòng 1- 4 phút đầu tiên khi bị chìm trong nước, đồng thời xử lý tốt các chấn thương kèm theo (đặc biệt là chấn thương đầu cổ và cột sống). [[{"fid":"2060","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 524px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Nguyên tắc cấp cứu là tại chỗ Nguyên tắc này cần khẩn trương, đúng phương pháp với mục đích cấp cứu là giải phóng đường thở và cung cấp ôxy cho nạn nhân. Do vậy việc làm đầu tiên cần đưa nạn nhân ra khỏi nước: Nếu nạn nhân còn tỉnh giãy giụa dưới nước, ném cho nạn nhân một cái phao, một khúc gỗ, hoặc một sợi dây để giúp họ lên bờ. Không nên nhảy xuống nước nếu không biết bơi, hoặc không được huấn luyện cách đưa người đuối nước còn tỉnh lên bờ. Vì nạn nhân lúc này trong tình trạng hoảng loạn, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì với được, kể cả người cứu nạn. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở. Nếu nạn nhân bất tỉnh dưới nước (chỉ xuống cứu khi người cứu biết bơi). Nếu không thì gọi người hỗ trợ hoặc dùng thuyền nếu có để ra cứu. Ngay sau khi đưa được nạn nhân vào bờ, cần tiến hành cấp cứu tại chỗ. Đặt nạn nhân ở tư thế nằm ngửa trên mặt phẳng cứng. Nếu bệnh nhân tím tái, không thể tự thở, tim ngừng đập (sờ mạch không có) và không có bất cứ phản xạ nào thì phải ấn tim ngoài lồng ngực. Dùng hai tay chồng lên nhau đặt ngay vào vị trí một nửa dưới xương ức và ấn tim với tần số ép khoảng 100 lần/1 phút, đồng thời phải khai thông đường thở bằng cách dùng gạc hay khăn vải móc đờm dãi, dị vật khỏi miệng nạn nhân và hà hơi thổi ngạt, hô hấp nhân tạo với phương pháp miệng thổi miệng cho nạn nhân. Nếu chỉ có một người tiến hành sơ cấp cứu, thì ấn tim ngoài lồng ngực 15 - 30 nhịp, sau đó hà hơi thổi ngạt 2 lần và tiếp tục lặp lại việc ấn tim ngoài lồng ngực với chu kỳ 15 - 30 lần ấn tim, 2 lần hà hơi thổi ngạt. Nếu có hai người cấp cứu thì một người ấn tim ngoài lồng ngực, một người hà hơi thổi ngạt, kiên trì thực hiện cho đến khi nạn nhân hồi tỉnh trở lại hoặc cho đến khi nạn nhân được đưa đến cơ sở y tế gần nhất. Cảnh giác phù phổi cấp sau khi đuối nước Sau sơ cứu ban đầu người bị đuối nước đã tỉnh lại, cần được đưa đến cơ sở y tế để kiểm tra, mục đích xem nạn nhân có bị phù phổi cấp sau khi đuối nước, hay còn được gọi là “chết đuối trên cạn” hay không. Một người đã hít phải nước thì có thể có các dấu hiệu của phù phổi cấp như: Khó thở, đau ngực hoặc ho; thay đổi đột ngột hành vi, người mệt mỏi,... những dấu hiệu này không dễ dàng phát hiện, đặc biệt ở trẻ nhỏ mà bình thường chúng có thể khó chịu. Nếu để lâu, nguy cơ tử vong sẽ cao nếu không được cấp cứu và điều trị kịp thời. Những sai lầm cần tránh Nhiều người thường có thói quen dốc ngược nạn nhân, vác lên vai rồi chạy, đây là hành động hoàn toàn sai vì thứ nhất, nó làm mất thời gian quý giá để hô hấp nhân tạo cứu sống bệnh nhân. Thứ 2 là khi ngạt nước thực ra nước ở trong phổi không nhiều như mọi người nghĩ, nó sẽ được tống ra ngoài khi ta hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực và khi bệnh nhân thở trở lại. Không hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực khi vận chuyển tới bệnh viện sẽ làm mất thời gian cứu nạn nhân, gây ra di chứng não sau này nếu bệnh nhân còn sống. Điều này là do thiếu ôxy ở các tổ chức trong một thời gian dài, đặc biệt là não.   Theo Sức khỏe và đời sống

CÁCH TRÁNH MẤT NƯỚC CƠ THỂ VÀO MÙA NẮNG NÓNG

Bước vào mùa nắng nóng, nguy cơ mất nước cơ thể và các bệnh liên quan đến nhiệt tăng cao. Hầu hết những trường hợp tử vong và bệnh liên quan thời tiết nóng đều có thể được ngăn chặn nếu có những hiểu biết về phòng ngừa và can thiệp kịp thời và đúng cách. Những người có nguy cơ cao mất nước cơ thể Người đang tập thể dục: Trong những tháng mùa hè, nếu tập thể dục ngoài trời, cơ thể có nguy cơ mất nước cao, có thể dẫn đến các bệnh liên quan đến nhiệt, bao gồm kiệt sức, đột quỵ và trong trường hợp nặng có thể tử vong. Vận động viên: Những người dành hàng giờ tập luyện và thi đấu trong nắng nóng thường không có đủ lượng chất lỏng để bù đắp cho sự mất mát chất lỏng gây ra bởi các hoạt động cơ bắp mạnh mẽ, cường độ cao. Công nhân làm việc ngoài trời: Công nhân xây dựng, nhân viên cảnh sát, nhân viên vệ sinh thu gom rác và những người dành phần lớn thời gian làm việc trong cái nắng nóng, có ít thời gian nghỉ ngơi trong phòng hoặc uống bù nước. Kết quả là những người lao động này có thể không tiêu thụ đủ chất lỏng trong một ngày làm việc Trẻ em: Vào mùa nắng nóng, trẻ em cũng bước vào kỳ nghỉ hè, trẻ thường dành nhiều thời gian hoạt động ở ngoài trời. Vì trẻ em có diện tích bề mặt da lớn hơn so với khối lượng cơ thể nên cơ thể trẻ thường tăng nhiệt nhanh hơn so với người lớn khi nhiệt độ không khí bên ngoài cao hơn nhiệt độ cơ thể. Người cao tuổi: Khả năng kiểm soát và điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của người cao tuổi bị giảm đi so với người trẻ. Người cao tuổi dinh dưỡng kém, mắc nhiều bệnh mạn tính và dùng nhiều loại thuốc nên dễ bị tổn thương do nhiệt hơn. Người cao tuổi có xu hướng uống ít nước và dễ mất nước, nhất là trong mùa nắng nóng. Điều vô cùng quan trọng đối với những người cao tuổi là phải thực hành một sự thích nghi dần dần với sức nóng mà đặt trọng tâm vào việc bù đủ nước cho cơ thể. Ngoài ra, những người đi du lịch, tham quan vào những ngày nắng nóng cũng thường xuyên có những hoạt động ngoài trời, nơi đông người nóng bức, nhiệt độ cao, dưới ánh nắng mặt trời gay gắt cũng dễ có nguy cơ mất nước và sốc nhiệt. [[{"fid":"2056","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 332px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Cách giữ mát và đủ nước cơ thể trong ngày nắng nóng Vậy làm thế nào để thích nghi cơ thể với thời tiết nóng? Phải mất khoảng 10 - 14 ngày làm việc hoặc hoạt động dưới sức nóng thời tiết để cơ thể điều chỉnh hoặc trở nên thích nghi. Một số cách nên làm: Giảm cường độ tập thể dục hoặc hoạt động trong những ngày đầu nắng nóng. Một khi cơ thể được nhiệt hóa, lượng mồ hôi sản sinh ra và tổng lượng dịch cơ thể khác tăng lên vì bạn đổ mồ hôi sớm hơn và nhiều hơn trước khi bạn trở nên thích nghi. Vào mùa nắng nóng, nên nắm rõ nhu cầu bù dịch cho cơ thể, hiểu biết các dấu hiệu và triệu chứng mất nước có thể dẫn đến các bệnh liên quan đến nhiệt như đột quỵ nhiệt và kiệt sức do nhiệt. Uống đủ nước: Thời điểm tốt nhất để tiêu thụ nước là trước khi khát. Vào lúc khát, cơ thể đã bị mất nước. Tốt nhất là uống theo lịch khi trời nóng. Tránh đồ uống có chứa caffeine hoặc rượu trong khi ở dưới ánh nắng mặt trời hoặc môi trường tăng nhiệt. Đồ uống có chứa caffeine hoặc rượu kích thích sản xuất nước tiểu, qua đó thúc đẩy sự mất nước. Thức uống tốt nhất là nước. Cũng có thể lựa chọn một trong những đồ uống thể thao với nhiều hương vị có sẵn trên thị trường. Thức uống thể thao giúp thay thế một số chất điện giải mà cơ thể bị mất qua mồ hôi và cung cấp năng lượng carbohydrate cho cơ bắp hoạt động. Dấu hiệu và triệu chứng mất nước Mất nước cơ thể hoàn toàn có thể phòng ngừa được. Có thể điều trị mất nước từ nhẹ đến trung bình bằng cách uống nhiều nước, oresol hoặc đồ uống thể thao. Các triệu chứng nhẹ của tình trạng mất nước bao gồm: Môi và lưỡi khô; Đau đầu; Yếu ớt, chóng mặt hoặc mệt mỏi cực độ; Nước tiểu ít và sậm màu hơn bình thường; Buồn nôn. Đây là những triệu chứng nhẹ, người lớn bình thường khỏe mạnh có thể tự điều trị. Nhưng nếu trẻ em hoặc người cao tuổi có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên, hãy gọi cho bác sĩ ngay lập tức. Nên đến cơ sở y tế ngay lập tức nếu có các triệu chứng nghiêm trọng sau đây của tình trạng mất nước: Tiêu chảy nặng hoặc tiêu chảy vừa phải trong 24 giờ trở lên; Phân có máu hoặc phân đen; Xuất hiện mất phương hướng, dễ cáu kỉnh hoặc có mệt mỏi cực độ; Ít đi tiểu; Miệng, da rất khô; Thở nhanh hoặc nhịp tim nhanh; Mắt trũng. Uống nước là điều tốt nhất để giữ đủ nước cho cơ thể nhưng có một vài thứ khác có thể làm để ngăn ngừa tình trạng mất nước: Mặc quần áo màu sáng và rộng rãi để giữ mát cơ thể; Bất cứ khi nào có cơ hội, hãy nghỉ ngơi trong bóng râm; Điều quan trọng cần nhớ là bất cứ khi nào một người đã ở trong môi trường có nhiệt độ cao mà có triệu chứng choáng váng hoặc bất tỉnh, cần phải được chăm sóc y tế ngay lập tức. Nhu cầu nước mỗi ngày Nước là cần thiết cho cơ thể con người khỏe mạnh. Cụ thể nhu cầu nước ở từng nhóm như sau: Người lớn: trung bình cần 8 -10 ly mỗi ngày vào mùa nắng nóng, mỗi ly chứa 200ml. Người lớn cần 300ml chất lỏng trước khi bắt đầu hoạt động cũng như thêm 150ml mỗi 10 - 20 phút trong khi đang hoạt động. Nên tiêu thụ 400-600ml chất lỏng trong vòng 2 giờ đầu tiên khi hoạt động ngoài trời. Trẻ em: cần 100-200ml chất lỏng trước khi bắt đầu các hoạt động ngoài trời và sau đó bổ sung 100ml mỗi 20 phút nếu vẫn ở ngoài trời nắng nóng. Kể cả khi quay trở vào nhà sau hoạt động ngoài trời, trẻ vẫn cần tiêu thụ từ 200-400ml chất lỏng trong vòng 2 giờ đầu tiên sau khi chúng ngừng hoạt động.   Theo Sức khỏe và đời sống

CHĂM SÓC ĐÚNG CÁCH SẢN PHỤ SAU SINH

Thông thường sau khi sinh thường tại cơ sở y tế 1-2 ngày sản phụ sẽ được xuất viện. Sau khi về nhà cách chăm sóc sau sinh là vấn đề quan trọng, cần phải có sự theo dõi chặt chẽ và tuân thủ hướng dẫn sau. [[{"fid":"2052","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","link_text":null,"attributes":{"height":"473","width":"693","style":"width: 500px; height: 341px;","class":"media-element file-default"}}]] Sau sinh sản phụ thường bị mất máu nhiều nên cần được bồi dưỡng, ăn những thực phẩm giàu dinh dưỡng, không nên kiêng khem quá độ, ăn những thức ăn dễ tiêu, tránh các gia vị có chất kích thích như ớt, cà phê, trà sẽ gây ảnh hưởng đến việc tiết sữa. Để có đủ sữa cho con bú, ngoài việc tích cực cho con bú, các bà mẹ nên uống đủ 2-3 lít nước mỗi ngày và uống thêm nước hoa quả, sữa. Đối với vú, sau khi sinh từ 2-3 ngày, sữa bắt đầu tiết ra, nên cho bé bú ngay sữa non, bú nhiều lần trong ngày để kích thích tiết sữa. Nếu việc tiết sữa bị tắc nên tích cực cho bé bú, triệu chứng đó sẽ dần dần mất đi. Tránh vắt, bóp sai cách gây vỡ tuyến, tia sữa. Cho trẻ bú mẹ sẽ giúp tử cung người mẹ co bóp tốt, sớm trở lại kích thước bình thường và tạo trạng thái tinh thần phấn chấn, gắn bó với con nơi người mẹ. Đối với vệ sinh thân thể,  cần vệ sinh vùng âm hộ ít nhất là 3 lần/ngày vào sáng, chiều và tối trước khi đi ngủ. Nếu sản dịch ra nhiều, sản phụ nên vệ sinh nhiều lần hơn. Cần thay  băng, giấy vệ sinh, khăn, nước rửa cũng phải sạch sẽ, tốt nhất nên dùng nước đun sôi để nguội hoặc nước ấm. Có thể dùng dung dịch vệ sinh sát khuẩn pha loãng để rửa. Sau khi rửa xong thì dùng khăn thấm cho khô… Trong quá trình sinh nở, cơ thể sản phụ tiết ra nhiều mồ hôi, nên cần phải tắm gội cho sạch sẽ. Nhất là vào mùa hè trời nóng, mồ hôi ra nhiều, để lâu không tắm, cơ thể càng bẩn, càng dễ nhiễm khuẩn gây nguy hiểm cho cả mẹ và bé. Tuy nhiên, sau khi sinh khoảng 2-3 ngày có thể tắm toàn thân nhưng cần tắm nhanh từ 5 - 10 phút, không nên tắm trong bồn hay trong chậu (đặc biệt là không nên ngâm mình trong nước). Phòng tắm phải kín gió và nên tắm bằng nước ấm dù ngoài trời nóng hay lạnh. Tắm xong phải lau khô người thật nhanh và mặc quần áo kín cổ, tay chân. Với các sản phụ đẻ mổ hay cắt tầng sinh môn, nên thận trọng với vết thương để tránh bung tuột mối chỉ. Cũng từ 3-4 ngày sau sinh, sản phụ có thể gội đầu nhưng nên gội nhanh và lau đầu cho nhanh khô, tốt nhất là dùng máy sấy để sấy khô tóc. Không tắm gội cùng lúc, mà nên tắm tầm 9 - 10 giờ sáng rồi gội đầu vào buổi trưa hoặc xế trưa để tránh phải tiếp xúc lâu với nước, tránh bị chóng mặt và có thể té ngã do phải vận động nhiều và cúi đầu lâu. Duy trì và ổn định sức khỏe cho bà mẹ sau sinh là một trong những vấn đề quan trọng. Tập thể dục là một trong những cách tốt nhất. Để tránh tình trạng bị chứng són tiểu sau này, bà mẹ có thể tập hít thở; có thể dùng, tã cotton bó bụng để tránh xổ bụng, tập thể dục nhẹ nhàng để sớm lấy lại hình dáng thon thả.   Theo Sức khỏe và đời sống

MỠ HEO HAY DẦU ĂN TỐT HƠN?

Trước đây, nhất là thời bao cấp, người tiêu dùng không phân biệt dầu ăn hay mỡ heo nhưng từ khi mở cửa, người tiêu dùng quan tâm hơn đến sức khỏe và thêm vào đó, các phương tiện thông tin đại chúng nói về tác hại của mỡ heo so với lợi ích của dầu ăn nên hầu như mọi người đều quay ngoắt với mỡ heo và chuyển sang dùng dầu thực vật. Gần đây, cũng thông tin đại chúng đưa ra những chứng cứ khoa học của các chuyên gia về ích lợi của mỡ heo. Đây là một trong 10 loại thực phẩm bổ dưỡng nhất, và đứng hàng thứ 8. Từ đó người tiêu dùng phân vân nên dùng dầu thực vật hay dùng mỡ heo trong chế biến thức ăn bởi vì theo một số lập luận bảo vệ quan điểm có lợi của mỡ heo cho rằng mỡ heo là linh hồn của món ăn, dù là món ăn gì đi nữa chỉ cần một muỗng mỡ heo cũng đủ để tạo món ăn màu sắc đẹp, vị thơm và ngon. Nó là một thứ phụ gia làm cho các món ăn trở nên tuyệt vời hơn vì mùi thơm của mỡ heo là không thể thay thế bởi nguồn gốc chính của mùi thơm này là một lượng nhỏ của một loại protein đặc biệt, sản phẩm phân hủy của glyceride. Nhưng bên cạnh đó, những lập luận khác cho rằng mỡ heo chứa nhiều chất béo bão hòa và cholesterol dẫn đến béo phì, và thậm chí có thể dẫn đến bệnh tim mạch. Thế nhưng các loại thực phẩm khác như thịt, trứng, sữa thậm chí trong một số loại hạt và cả dầu ăn khác đều có chứa chất béo bão hòa. [[{"fid":"2050","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","link_text":null,"attributes":{"height":"438","width":"700","style":"width: 500px; height: 313px;","class":"media-element file-default"}}]] Mỡ heo chứa nhiều vitamin và khoáng chất tốt cho sức khỏe Bằng những nghiên cứu khoa học về những lợi ích của mỡ heo ảnh hưởng đến sức khỏe con người, các nhà khoa học cho rằng mỡ heo mặc dù có axit béo bão hòa nhưng giàu vitamin B và các khoáng chất tốt cho sức khỏe, nó giàu vitamin D, nó thúc đẩy sự hấp thụ canxi của cơ thể. Đúng vậy, lượng vitamin D trong mỡ heo có tác dụng giúp cải thiện chức năng tim mạch, duy trì sức khỏe của phổi và hô hấp, tăng cường chức năng cơ bắp và giúp cơ thể phòng chống nhiễm trùng. Mà trước đây rất nhiều thuyết cho rằng mỡ heo không tốt cho tim và ngày càng có nhiều nghiên cứu kết luận rằng những thực phẩm giàu carbohydrate như đường, thực phẩm chế biến, gạo và mì là thủ phạm chính gây ra bệnh tim chứ không phải từ mỡ heo. Bởi vì, trong mỡ heo chứa khoảng 40% chất béo bão hòa, khoảng 50%  - 60% chất béo không bão hòa đơn và khoảng 10% chất béo không bão hòa đa mà thực phẩm giàu chất béo bão hòa có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ. Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn quan điểm cho rằng mỡ heo chính là thủ phạm dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh như gan nhiễm mỡ, xơ vữa động mạch, huyết áp cao… Theo các chuyên gia dinh dưỡng, mỗi ngày cơ thể con người cần 5 chất dinh dưỡng cơ bản, đó là protein, chất béo, carbohydrate, vitamin và khoáng chất. Những thực phẩm này cần sự cân bằng và không thể bỏ sót nhóm nào.Thịt mỡ nếu chế biến tốt sẽ là nguồn cung cấp chất béo phong phú với lượng calo cao cho cơ thể. Hơn thế nữa, thịt mỡ chứa lecithin và cholesterol, là loại chất mà cơ thể rất cần. Ngoài ra, mỡ heo còn tham gia cấu tạo màng tế bào thần kinh, trong khi dầu thực vật không có chức năng này do được chiết xuất từ các loại hạt và quả như oliu, dừa, đậu phộng, đậu nành… Nếu không sử dụng mỡ heo trong thời gian dài, cơ thể sẽ khó hấp thu vitamin A dẫn đến thiếu hụt vitamin A; tăng nguy cơ mắc các bệnh về xương; làm rối loạn nội tiết tố; gây suy nhược cơ thể, tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim. Vì thế, trong các bữa ăn hàng ngày nên bổ sung thêm mỡ heo theo chế độ hợp lý bên cạnh đó phải duy trì thực đơn đa dạng và kết hợp đầy đủ các nhóm thực phẩm dinh dưỡng. Tuy nhiên, nhóm người trong độ tuổi 50 trở lên cần phải hạn chế dùng mỡ;  riêng trẻ nhỏ, mỡ heo đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển thể chất và góp phần ngăn ngừa bệnh cận thị. Trong một số trường hợp, mỡ heo thích hợp với người bị các bệnh như thiếu máu, chóng mặt, suy dinh dưỡng, tóc gãy rụng, tóc bạc sớm, táo bón, tay chân nứt nẻ, phụ nữ sau sinh… Việc sử dụng mỡ động vật với liều lượng hợp lý, phù hợp với từng lứa tuổi và giai đoạn phát triển đều mang lại những lợi ích nhất định cho sức khỏe của người dùng. Về giá trị dinh dưỡng của dầu ăn và mỡ động vật, các chuyên gia dinh dưỡng cho biết: “Trong mỡ có nhiều axit béo no, vitamin tan trong chất béo như vitamin A, vitamin D. Trong dầu thực vật có acid béo không no, vitamin tan trong chất béo như vitamin E, vitamin K mà acid béo không no nếu sử dụng ở nhiệt độ cao, lâu sẽ bị phân hủy tạo thành những chất độc gây hại cho cơ thể”. Ngoài ra, vấn đề mà nhiều người lo lắng khi sử dụng mỡ động vật chính là làm gia tăng hàm lượng cholesterol.Tuy nhiên, cholesterol có vai trò rất quan trọng với não bộ, thần kinh, sức bền của thành mạch máu chỉ khi thừa hoặc thiếu cholesterol mới ảnh hưởng đến sức khỏe. Như vậy, rõ ràng là mỡ không gây béo hơn dầu thực vật như bấy lâu nay quan niệm vì mỗi một gram dầu và mỡ đều cung cấp 9 calo như nhau cho nên dù là ăn dầu hay mỡ đều gây tăng cân như nhau và việc sử dụng dầu ăn hay mỡ động vật đều tốt với cơ thể nhưng cần sự cân bằng trong sử dụng để chế biến thức ăn giúp bảo đảm sức khỏe.   Theo Sức khỏe và đời sống

TĂNG HUYẾT ÁP – KẺ GIẾT NGƯỜI THẦM LẶNG

Tăng huyết áp (THA) là bệnh rất phổ biến và không ngừng gia tăng trên thế giới cũng như ở nước ta. Đại đa số người bệnh thường không có các dấu hiệu nào cảnh báo trước, cho đến khi xuất hiện triệu chứng thì có khi đã gặp tai biến nặng nề… Khi nào được gọi là tăng huyết áp? Huyết áp (HA) là một chỉ số cho biết áp lực bơm máu trong cơ thể. Số đo HA  được biểu diễn bằng đơn vị mmHg (hay cmHg)  bao gồm 2 thành phần: Trị số HA tâm thu (số ở trên) nói lên khả năng bơm máu của tim, trị số HA tâm trương (số ở dưới) nói lên trương lực của động mạch để duy trì dòng máu chảy trong hệ thống mạch máu. Trong những năm gần đây đã có nhiều chứng cứ mới trong việc xác định chẩn đoán và điều trị nên nhiều tổ chức và các hiệp hội tăng huyết áp trên thế giới đã công bố nhiều khuyến cáo mới trong chẩn đoán và điều trị THA có tính đột phá, tuy nhiên vẫn còn một số điểm chưa thống nhất. Do vậy, năm 2018 Hội Tim mạch Việt Nam/ Phân Hội tăng huyết áp Việt Nam (VNHA/VSH) đã họp hội đồng chuyên gia cùng với ủy ban soạn thảo thống nhất khuyến cáo chẩn đoán và điều trị THA. Theo đó, vẫn dùng định nghĩa và phân loại THA phòng khám của khuyến cáo 2015. Chẩn đoán THA khi đo HA phòng khám có HA tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc HA tâm trương  ≥90mmHg. [[{"fid":"2040","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 577px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Tại sao THA là “kẻ giết người” thầm lặng? Tăng huyết áp được gọi là “kẻ giết người” thầm lặng, bởi vì đa phần người bệnh thường không có triệu chứng, không có dấu hiệu cảnh báo trước hoặc những dấu hiệu thể hiện bệnh tăng huyết áp không có gì khác biệt so với người bình thường. Việc không biểu hiện triệu chứng làm cho bệnh không được chẩn đoán và điều trị sớm, đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc khi biến chứng đã âm thầm diễn ra mà người bệnh vẫn không hay biết gì. Quan điểm trước đây cho rằng, cứ tăng huyết áp là phải có đau đầu, mặt đỏ bừng, béo, hiện tượng ruồi bay... là hết sức sai lầm. Nhiều khi, sự xuất hiện các triệu chứng này thì người bệnh bị tai biến nặng nề. Trên thực tế, rất nhiều người bệnh được chẩn đoán tăng huyết áp một cách tình cờ khi đi kiểm tra sức khỏe định kỳ hoặc sau khi xảy ra một biến cố lớn như nhồi máu cơ tim, đột quỵ… Các biến chứng của tăng huyết áp thường rất nặng nề, để lại các di chứng ảnh hưởng đến sức khỏe, sức lao động của người bệnh và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội: Các biến chứng tim mạch (nhồi máu cơ tim, bệnh động mạch vành, suy tim…), biến chứng về não (tai biến mạch não bao gồm cả xuất huyết não và nhũn não, bệnh não do tăng huyết áp), biến chứng về thận (đái ra protein, suy thận...), biến chứng về mắt (tiến triển theo các giai đoạn, thậm chí có thể dẫn đến mù lòa), biến chứng về mạch ngoại vi, trong đó đặc biệt nguy hiểm là biến chứng tách thành động mạch - một biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra bất cứ nơi nào trong cơ thể. Khi bị phình bóc tách động mạch, người bệnh có thể phải đối mặt với tình trạng chảy máu nội bộ và đe dọa tính mạng… Điều trị các biến chứng thường khó khăn và lâu dài, chi phí điều trị rất lớn do phải điều trị dài ngày (hầu như suốt quãng đời còn lại), phải sử dụng thuốc và phương tiện kỹ thuật đắt tiền, ngoài ra còn phải kể đến chi phí gián tiếp do người nhà phải chăm nuôi… Như vậy, bên cạnh việc ảnh hưởng tới sức khỏe và giảm chất lượng cuộc sống thì thiệt hại về kinh tế do bệnh không lây nhiễm nói chung và các bệnh tim mạch nói riêng, trong đó có tăng huyết áp là rất lớn cho cả bản thân người bệnh, gia đình và xã hội. [[{"fid":"2041","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 352px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Quản lý huyết áp như thế nào? Việc quản lý huyết áp phụ thuộc rất nhiều vào bản thân người bệnh, trong đó thay đổi lối sống đóng một vai trò quan trọng: Tập luyện thể dục thể thao với mức độ phù hợp với từng cá nhân, kết hợp với chế độ ăn hợp lý, duy trì cân nặng trong giới hạn bình thường (BMI: 18,5 – 22,9 kg/m2) sẽ giảm đáng kể nguy cơ mắc các bệnh lý về tim mạch, trong đó có tăng huyết áp. Bên cạnh đó, người bệnh phải dùng thuốc đúng, đầy đủ và liên tục theo chỉ định của bác sĩ. Việc dùng đúng các thuốc hạ huyết áp không chỉ làm giảm huyết áp như mong muốn mà còn giúp giảm đáng kể các tổn thương cơ quan đích (hay các biến chứng của tăng huyết áp). Mục tiêu điều trị thường là để giữ cho huyết áp dưới 140/90 mmHg. Hiện nay ngày càng có nhiều loại thuốc có hiệu quả cao trong điều trị tăng huyết áp, an toàn, ít tác dụng phụ. Tuy nhiên, một vấn đề khá nan giải là sự tuân thủ điều trị của người bị tăng huyết áp còn kém, làm cho số bệnh nhân đạt được huyết áp mục tiêu còn khiêm tốn. Vì vậy, người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ điều trị và phối hợp với bác sĩ trong quá trình trị bệnh, để có thể điều chỉnh thuốc kịp thời khi cần thiết.  Ngay cả khi huyết áp đã trở về bình thường (đạt huyết áp mục tiêu), người bệnh vẫn phải tiếp tục dùng thuốc một cách đều đặn và kiểm tra huyết áp thường xuyên. Người bệnh cần phải nhớ rằng, vì có thuốc nên huyết áp mới được kiểm soát. Bỏ thuốc sẽ rất nguy hiểm vì có thể làm huyết áp cao đột ngột dẫn đến tai biến mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim và có thể gây ra đột tử. Yếu tố nguy cơ nào gây tăng huyết áp Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tăng huyết áp như: Tuổi cao (càng lớn tuổi nguy cơ tăng huyết áp càng cao), hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia, khẩu phần ăn không hợp lý (ăn mặn, ăn nhiều chất béo), ít hoạt động thể lực, thừa cân béo phì, căng thẳng trong cuộc sống, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, tiền sử gia đình có người bị tăng huyết áp, dùng thuốc (một số loại thuốc như thuốc tránh thai, thuốc co mạch trong một số sản phẩm trị cảm cúm… có thể gây tăng huyết áp)  Phần lớn những yếu tố nguy cơ này có thể kiểm soát được nếu có hiểu biết đúng và biết cách phòng tránh. Cách phòng ngừa Bệnh tăng huyết áp hoàn toàn có thể được phòng ngừa hiệu quả nhờ lối sống lành mạnh: Chế độ ăn hợp lý: Ăn dưới 5g muối/ngày; tăng cường ăn rau xanh, hoa quả tươi (vì chất xơ có trong rau quả có tác dụng chuyển hóa các chất béo và làm hạ huyết áp); nên ăn chất béo có nguồn gốc thực vật, các loại dầu thực vật, dầu cá và một số hạt có chất béo như hạt mè, hạt hướng dương, hạt hạnh nhân; đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng trong khẩu phần ăn hàng ngày. Duy trì cân nặng hợp lý: Tăng cân trong thời gian dài là yếu tố nguy cơ làm tăng huyết áp. Nguy cơ này tăng dần ở phụ nữ cao tuổi, sau mãn kinh. Vì vậy, cần duy trì cân nặng ở mức hợp lý và cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90 cm ở nam và dưới 80 cm ở nữ. Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: Tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi ngày, ít nhất 3-4 lần/tuần. Bỏ thói quen xấu:  Không hút thuốc lá hoặc thuốc lào; hạn chế uống bia rượu; tránh các lo âu, căng thẳng; sống tích cực, cần chú ý đến việc thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý; không thức khuya, ngủ ít nhất 7 giờ/ngày và đúng giờ.   Theo Sức khỏe và đời sống

THỰC HIỆN LỐI SỐNG LÀNH MẠNH ĐỂ PHÒNG, CHỐNG TĂNG HUYẾT ÁP

Tăng huyết áp (THA) là một bệnh mạn tính phổ biến nhất trên thế giới. THA không chỉ có ảnh hưởng lớn đến gánh nặng bệnh lý tim mạch mà còn có ảnh hưởng nhiều đến gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Tỷ lệ người bị bệnh THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện đang ở mức rất cao. Các biến chứng của THA thường rất nặng nề như tai biến mạch máu não (TBMMN), nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận, mù lòa... Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh THA trong cộng đồng như: tuổi cao, hút thuốc lá, uống nhiều rượu/bia, khẩu phần ăn không hợp lý (ăn mặn, ăn nhiều chất béo), ít hoạt động thể lực, béo phì, căng thẳng trong cuộc sống, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, tiền sử gia đình có người bị THA... Phần lớn những yếu tố nguy cơ này có thể kiểm soát được khi người dân có hiểu biết đúng và biết được cách phòng tránh. Hiện nay còn khá nhiều người hiểu sai về bệnh THA và các yếu tố nguy cơ của THA. Thực hiện lối sống lành mạnh, phù hợp là một biện pháp chính để phòng ngừa THA cũng như góp phần điều trị bệnh THA. Điều chỉnh lối sống bao gồm các vấn đề: 1. Giảm cân ở người thừa cân hoặc béo phì Tăng  5-10kg trọng lượng cơ thể so với cân nặng chuẩn sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ xuất hiện THA. Tăng cân trong thời gian dài là yếu tố nguy cơ (chiếm tới 48%) khả năng mắc bệnh. Trọng lượng cơ thể của mỗi người được theo dõi bằng chỉ số khối cơ thể (BMI - Body Mass Index): lấy cân nặng (kg) chia cho bình phương chiều cao (mét). Chỉ số khối cơ thể ở người Việt Nam khác với các dân tộc có tầm vóc to lớn, nếu con số này ≥ 23 đã là thừa cân và > 25 được coi là béo phì. Tốt nhất phải duy trì chỉ số khối cơ thể từ 18 - 22,9 tức là giữ trọng lượng cơ thể ở mức bình thường. Với người thừa cân hoặc béo phì, cứ giảm 10kg cân nặng sẽ làm giảm 5 - 10mmHg mức huyết áp tâm thu. [[{"fid":"2027","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","link_text":null,"attributes":{"height":"488","width":"694","style":"width: 500px; height: 352px;","class":"media-element file-default"}}]] 2. Tuân thủ chế độ ăn nhiều trái cây, rau, các thực phẩm ít chất béo, giảm ăn các loại mỡ bão hòa và mỡ toàn phần Nên ăn 3 bữa một/ngày với khẩu phần thức ăn cân đối. Khoảng một nửa thực phẩm là chất bột, rau xanh, trái cây. Không dùng nhiều mỡ động vật và chất ngọt. Cố gắng ăn các thức ăn có nhiều chất xơ hòa tan như: đậu xanh quả, đậu hạt các loại, măng, rau xanh,... Nên ăn chất béo có nguồn gốc thực vật, các loại dầu thực vật, dầu cá và một số hạt có chất béo như: hạt mè, hạt hướng dương, hạt hạnh nhân. Acid béo omega-3 trong cá và các loại hạt có tác dụng làm hạ cholesterol xấu, tăng lượng cholesterol tốt và giảm nguy cơ máu đông. Nhiều nghiên cứu khoa học khác nhau đều cho thấy, chất xơ trong rau quả và những loại ngũ cốc thô như: gạo lức, bắp, các loại đậu có tác dụng chuyển hóa các chất béo và làm hạ huyết áp. Đặc biệt, chất xơ cũng thu hút những acid mật do cơ thể sản sinh ra để tiêu hóa các chất béo và đào thải chúng ra ngoài theo đường ruột. Ăn nhiều rau quả giúp bảo đảm chế độ nhiều kali và ít natri là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc ổn định huyết áp. Ăn nhiều cá, hải sản, giảm các loại thịt đỏ và mỡ động vật. Các loại đậu, nhất là đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành với nhiều chất xơ, chất khoáng và những chất chống oxy hóa là một nguồn chất đạm và chất béo lý tưởng cho phòng chống THA. Với người đã bị THA thì tốt nhất là nên có ý thức ăn nhạt. 3. Chế độ ăn giảm muối, giàu kali và canxi Nhu cầu muối ăn trung bình của một người khoảng 15g/ngày, trong đó có tới 10g sẵn có trong thực phẩm tự nhiên, vì vậy chỉ nên bổ sung thêm một thìa cà phê muối ăn/ngày là đủ. Ngoài việc giảm lượng muối trong khi nấu nướng, hạn chế dùng thêm muối hoặc nước chấm ở bàn ăn, cần cẩn thận với những loại thức ăn nhanh, những món ăn công nghiệp luôn có lượng muối khá cao. 4. Tăng cường hoạt động thể lực Tăng hoạt động thể lực làm giảm bớt béo phì, người sống tĩnh tại cần tập thể dục đều đặn ở mức vừa phải như đi bộ nhanh hoặc bơi lội trong vòng 30 - 45 phút, 3 - 4 lần/tuần. Các hoạt động thể dục này hiệu quả hơn chạy hoặc nhảy và có thể làm giảm huyết áp tâm thu từ 4 - 8mmHg. 5. Bỏ thói quen xấu - Ngưng hút thuốc là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh THA và các bệnh lý tim mạch. - Bớt uống rượu: Có nhiều bằng chứng cho thấy có mối tương quan giữa uống rượu và tăng huyết áp trong cộng đồng. Uống nhiều rượu dễ làm THA. - Nên hạn chế tối đa stress: Sống thanh thản, hòa nhập với cộng đồng, tránh lo âu hay căng thẳng, bực tức quá mức,... Tóm lại, điều chỉnh lối sống để điều trị bệnh THA là việc hoàn toàn có thể thực hiện ở gia đình, là phương pháp không tốn kém và khả thi, giúp giảm được tỷ lệ người mắc bệnh THA và các biến cố tim mạch do THA.   Theo Sức khỏe và đời sống

VIÊM XOANG Ở TRẺ EM

Viêm xoang có thể gặp ở trẻ em kể cả trẻ sơ sinh. Tuy nhiên tần suất rất hiếm, khoảng 0,1% trong tổng số các bệnh nhân bị viêm xoang và viêm xoang ở trẻ sơ sinh chủ yếu là viêm hệ thống xoang sàng. Viêm xoang ở trẻ em khác gì với người lớn? Bệnh viêm xoang ở trẻ em khác với người lớn, đây không phải là người lớn thu nhỏ mà ở lứa tuổi này hệ thống xoang đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Hệ thống xoang mặt bắt đầu được hình thành từ tuần thứ tư của thời kỳ bào thai, xuất phát từ một tế bào sàng. Tế bào sàng phát triển xâm lấn vào các xương để tạo thành các xoang khác nhau như xâm lấn vào xương trán tạo xoang trán, xâm lấn xương hàm trên tạo xoang hàm và xâm lấn vào xương bướm để hình thành xoang bướm. Chính vì vậy các xoang có liên hệ mật thiết với nhau nên thường bị viêm nhiều xoang cùng một lúc. Xoang sàng có ngay từ khi trẻ ra đời nhưng những các xoang khác được tạo thành dần: xoang hàm có khi trẻ 3-4 tuổi, xoang trán và xoang bướm chỉ xuất hiện khi trẻ được 7- 8 tuổi. Hệ thống xoang chỉ hoàn thiện ở người 20 tuổi. Kích thước các xoang của trẻ rất nhỏ, đôi khi mới chỉ là một rãnh hằn vào xương làm cho việc chẩn đoán bệnh gặp nhiều khó khăn vì các triệu chứng thường không điển hình và khó khai thác được chính xác. [[{"fid":"2025","view_mode":"default","fields":{"format":"default","field_file_image_alt_text[und][0][value]":"","field_file_image_title_text[und][0][value]":""},"type":"media","attributes":{"style":"width: 500px; height: 262px;","class":"media-element file-default"},"link_text":null}]] Trẻ nào thường bị viêm xoang? Trong các thập niên gần đây, bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp trên ở trẻ em có xu hướng gia tăng, hay gặp nhất là các trẻ có cơ địa dị ứng hoặc sống trong môi trường ô nhiễm, hít phải khói thuốc lá thụ động, hơi khói của các khu công nghiệp, bếp than..., sự giảm dần của diện tích cây xanh trong môi trường sống. Tỷ lệ viêm xoang ở trẻ em lên tới 1,7% số bệnh nhân bị mắc bệnh tai mũi họng học đường (điều tra của Bệnh viện Tai mũi họng Trung ương năm 2005). Tỷ lệ trẻ em trai mắc bệnh viêm xoang mũi tương đương với trẻ em gái (trai là 54%, gái là 46%). Phân biệt dấu hiệu bệnh viêm xoang với viêm đường hô hấp trên Làm thế nào để phân biệt trẻ bị bệnh viêm xoang với một đợt viêm đường hô hấp trên cấp tính vì trong một năm trẻ có thể mắc từ 6-8 lần? Chẩn đoán viêm mũi xoang ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng khi thăm khám. Diễn biến và biểu hiện bệnh như sau: Sau một đợt viêm mũi họng cấp kéo dài trên 1 tuần (viêm nhiễm đường hô hấp trên chỉ kéo dài trung bình 5-7 ngày là hết), trẻ vẫn còn sốt nhẹ, người mệt mỏi, xì mũi màu vàng, xanh đặc, có mùi hôi. Trẻ thường xuyên có cảm giác chảy đờm từ mũi xuống họng nên hay bị ho, nhất là ban đêm khi ngủ. Hơi thở hôi và dễ nôn oẹ. Trẻ bú không được dài hơi như khi đang khỏe do tắc mũi. Trẻ hay quấy khóc, thở ngáy, ngủ không ngon giấc, mệt mỏi kèm theo hốc mắt có quầng thâm. Trẻ lớn hơn hay phàn nàn bị đau đầu nặng mặt, dễ buồn ngủ. Đôi khi trong đợt viêm cấp mặt trước của má bị sưng nề đỏ, ấn đau hoặc có biểu hiện sưng nề, đóng bánh ở góc trong ổ mắt do hiện tượng viêm xoang sàng rò mủ ra ngoài da. Khám bệnh thấy tình trạng niêm mạc mũi bị phù nề, xuất tiết nhiều dịch, khe giữa đọng nhiều mủ vàng xanh. Một số trường hợp viêm mũi xoang lâu ngày dẫn tới hình thành polip mũi. Tổ chức V.A ở trần vòm trong tình trạng quá phát và đọng mủ. Quan sát họng miệng thấy mủ vàng xanh bám đầy thành sau họng xuống tận dưới hạ họng. Màng tai thường dày đục và lõm, một số trẻ có hiện tượng ứ đọng dịch trong hòm tai-viêm tai giữa thanh dịch - do sự thông khí kém giữa tai và mũi họng. Chụp Xquang xoang thường như phim Blondeau, Hirtz chỉ cân nhắc thực hiện khi nghi ngờ có biến chứng của viêm xoang do ảnh hưởng nặng nề của tia chụp với trẻ nhưng thật sự cũng khó đánh giá tình trạng viêm xoang của trẻ trên hai phim này vì mặt trước của xoang bị các mầm răng cản trở. Nếu thấy thật cần thiết chỉ nên chụp phim cắt lớp vùng xoang để đánh giá chính xác tình trạng của bệnh. Bệnh viêm xoang ở trẻ cần điều trị như thế nào? Điều trị nội khoa là chính từ 4-6 tuần với kháng sinh toàn thân nhóm b lactam hoặc macrolid kết hợp với thuốc chống viêm, giảm phù nề, chống dị ứng. Tại chỗ dùng các thuốc nhỏ mũi nhóm co mạch, chống viêm, giảm xuất tiết để làm thông thoáng lỗ dẫn lưu xoang. Chỉ định phẫu thuật chỉ đặt ra khi điều trị nội khoa sau 6 tháng thất bại hoặc có những biến chứng của viêm xoang theo chỉ định chặt chẽ của các thầy thuốc chuyên khoa tai mũi họng.   Theo Sức khỏe và đời sống

Trang